Thứ Bảy, 20 tháng 10, 2018

Một Lời Xin Lỗi Chân Thành - Bùi Bảo Trúc .

Một Lời Xin Lỗi Chân Thành -

Bùi Bảo Trúc .
Nói theo một lối nói của người Mỹ mà nay nhiều người chúng ta đã rất quen, là tôi nợ những bản nhạc mà chúng ta thường gọi là “nhạc lính” một lời xin lỗi. Một lời xin lỗi thật lớn, thật ch…


Nói theo một lối nói của người Mỹ mà nay nhiều người chúng ta đã rất quen, là tôi nợ những bản nhạc mà chúng ta thường gọi là “nhạc lính” một lời xin lỗi. Một lời xin lỗi thật lớn, thật chân tình nhất và thành thật nhất.
Xin lỗi những bản nhạc lính, những người trình diễn chúng, những người yêu chúng, không chỉ một, mà một ngàn lời xin lỗi. Một vạn lời xin lỗi. Mà vẫn thấy chưa đủ.
Một buổi tối tuần trước, ngồi với Phan Nhật Nam, chúng tôi nhận ra một điều là cuộc chiến Việt Nam bi thảm và vô cùng tàn bạo lại để lại cho chúng ta, những người ở miền Nam, một kho tàng hết sức quí báu, đó là những bản nhạc viết về những người lính trong chiến tranh, và tuy ngày nay, cuộc chiến đã kết thúc, những bài hát ấy vẫn còn ở lại với chúng ta và chúng vẫn còn tạo ra biết bao nhiêu là cảm động, biết bao nhiêu xao xuyến, và vẫn còn được hát lên để nhớ lại nguyên một thời binh đao tưởng như cung kiếm đã xếp lại, bụi dầy đã phủ kín. Bức tượng người lính dáng điệu mệt mỏi ở lối vào nghĩa trang quân đội Biên Hòa bị kéo sập không biết nay ở đâu nhưng những bài hát viết cho những người lính này vẫn còn ở mãi với chúng ta.
Những bài hát đầu tiên về những người lính ấy mơ hồ tôi nghe từ chiếc radio trên căn gác ở Hà Nội của người chú…bài Chiến Sĩ Của Lòng Em với những câu: …khi nước nhà phút ngả nghiêng em mơ người trai anh dũng mang thân thế hiến giang sơn chí quật cường hiên ngang … chiến sĩ của lòng em đắm đuối ước mơ ở chiến trường xa dãi nắng dầm mưa nhịp bước oai hùng chàng tiến trong tim em trong khi vang ca say theo chiến thắng…
Vài tháng sau chú tôi tử trận.
Vào Sài Gòn, khoảng năm 1957, tôi nghe bài Em Gắng Chờ của Huỳnh Anh và yêu ngay những câu này: …vai súng hiên ngang hẹn cùng người cũ…trong bóng vinh quang rộn ràng anh bước hiên ngang về làng trời Nam hân hoan reo vang thanh bình ca… tôi yêu bài hát ấy vì một cô bạn hàng xóm, tưởng tượng cô là người đứng trên bến sông…
Nhưng đó mới chỉ là những bài hát về lính còn quá hiền lành, khi cuộc chiến chỉ mới bắt đầu…Anh về qua xóm nhỏ, em chờ dưới gốc dừa nắng chiều lên ái tóc, tình quê hương đơn sơ… anh chiến binh tiền tuyến ơi về giải phóng quê hương… Một thời gian sau, vài ba người bạn trong lớp bỏ học lên đường nhập ngũ… bạn ơi, mai này ai hỏi đến tên tôi, thì xin hãy đáp khoác chiến y rồi… người thư sinh ấy đã xếp bút nghiên giã từ trường yêu với bao nhiêu bạn hiền… Lời ca lãng mạn, hơi bầy đặt, rẻ tiền nhưng tội nghiệp vô cùng. Tôi nhớ một tối lén đi uống bia với người bạn tiễn chàng đi lính. Bài hát ấy được hát lên bởi một người bạn bên những chai bia đầu tiên. Nội trong năm ấy, cả hai đều chết trận.
Hai năm sau, tôi đi học xa, mấy năm sau mới về. Tôi không nghe những bài hát ấy nữa. Tôi nghe Beatles, Rock, nhạc cổ điển Tây phương, nhạc đồng quê, nhạc dân ca Mỹ, nhạc phản chiến… Ở Việt Nam, cuộc chiến đang trở nên khốc liệt hơn. Những bản nhạc tôi nghe trong những năm xa nhà là thứ nhạc hoàn toàn khác. Bob Dylan, Joan Baez, Peter Paul & Mary, Pete Seeger… cũng nói về chiến tranh đấy, nhưng trở lại Sài Gòn tôi mới lại được nghe những bản nhạc lính mà tôi đã bỏ quên đi trong suốt những năm xa nhà. Thư nhà cho biết dăm ba người bạn cùng lớp đã vinh thăng thiếu uý…
Sáng nay vừa thức dậy, nghe tin em gục ngã nơi chiến trường… trong vườn tôi vô tình hoa tường vi vẫn nở thêm một đoá…Nếu em không là người yêu của lính… tên thật la em các bin, họ hàng em có trăm nghìn… từ ngay tôi lên cai việc làm tôi rất nhiều, binh ngoan cho nốt tốt, lười cho coóc vê…đi quân dịch là thương nòi giống…hãy nhớ tới anh luôn luôn, yêu em vì lòng chờ mong…anh đi chiến dịch… lòng súng nhân đạo cứu người lầm than…anh là lính đa tình…phi đạo chạy dài anh cất cánh bay lên…
Trở lại Sài Gòn, những buổi chiều trong quán nước mở trang báo ra đọc thấy tên bạn bè mấy người trên trang cáo phó chết trận cao nguyên.
…viết tên người yêu lên ba lô nặng trĩu… đừng trước ngõ cũ nghe giặc tràn qua thôn xóm… thăm em dăm ba ngày rồi anh đi… xuyên lá cành trăng lên lều vải… chiều mưa biên giới anh đi về đâu…anh không chết đâu anh, người anh hùng mũ đỏ tên Đương…quì hôn đất thân yêu, Quảng Trị ơi mừng quê hương giải phóng…
Nhạc Việt đã đổi khác…em ngại ngùng dạo phố … bên người yêu tật nguyền … anh trở về trên đôi nạng gỗ… bại tướng cụt chân…
Những bài hát như thế phải có cả trăm bài cho đến nay vẫn còn được hát lên. Hát để nhớ lại những bất hạnh của một thời tuổi trẻ. Những chuyện đáng lẽ phải quên đi. Nhưng những chuyện đó cũng lại là một phần của đời sống chúng ta.
Chúng ta phải cám ơn những bài hát ấy mặc dù chúng bi thảm, đau đớn. Chúng vẫn nhắc chúng ta về những thương tích không bao giờ lành trên cơ thể của mỗi người.
Trong khi những người lính miền Bắc không có được những bài ca như thế. Chỉ là những bài ca đặt hàng, ngợi ca lãnh tụ hay những tiếng chầy trên sóc Bom Bo cum cụp cum …tìm diệt Mỹ giải phòng cho dân mình…bóng cây kơnia, tiếng đàn ta lư…
Họ không có được những ca khúc nên hồn để còn hát lên được cho mãi tận này hôm nay. Trong khi những mất mát của họ không hề nhỏ. Nhưng ngày nay, còn đươc mấy người hát những bài hát ấy. Và nếu hát chúng lên thì có được bao nhiêu người xúc động?
Cám ơn những bài nhạc lính. Xin lỗi những bài nhạc lính, những bài nhạc có một thời mà không ít người trong chúng ta đã coi thường nó, cũng có thể đã khinh bỉ nó, coi nó là quê mùa, sến…trong khi chúng hay biết là chừng nào. Nửa trên vĩ tuyến 17 không có được một nền nhạc như thế.
Tôi thành thật xin lỗi những bài nhạc lính, xin lỗi các tác gỉả, những người hát chúng một trăm ngàn lần.
Mà vẫn thấy chưa đủ.
Bùi Bảo Trúc

Sách viết về thế hệ người lính VNCH

https://baomai.blogspot.com/
Có thêm sách viết về người lính VNCH

Những năm gần đây bắt đầu xuất hiện những nhà nghiên cứu trẻ nước ngoài gốc Việt thành danh với các công trình liên quan đến gốc rễ Việt Nam của họ.

Tại Mỹ, nơi tập trung cộng đồng Việt kiều, Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Thanh Việt nhận giải văn học Pulitzer năm 2015 cho tiểu thuyết The Sympathizer. Một người khác cũng ở Mỹ, Tiến sĩ Nguyễn Liên Hằng, được giải Stuart L. Bernath của Hội Sử gia Quan hệ Ngoại giao Hoa Kỳ năm 2013 nhờ cuốn Hanoi's War: An International History of the War for Peace in Vietnam.

Úc, với số người gốc Việt ước tính hơn 233.000 người, cũng chứng kiến sự xuất hiện của một số người lớn lên ở đây nhưng muốn viết về Việt Nam.

Một mảng được họ quan tâm là tiếng nói của thế hệ phi cộng sản trong chiến tranh ở miền Nam Việt Nam.

Trải nghiệm từ cha mẹ

https://baomai.blogspot.com/
  
Cuốn sách gần đây, South Vietnamese Soldiers: Memories of the Vietnam War and After (in năm 2016), là một nỗ lực như vậy của Tiến sĩ Nathalie Huynh Chau Nguyen, dạy tại Đại học Monash, Úc.

Cuốn sách bắt đầu từ dự án nghiên cứu của tác giả về các cựu binh Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), chủ yếu định cư ở Úc, gồm tổng cộng 54 cuộc phỏng vấn.

Những cựu binh được phỏng vấn, người già nhất sinh năm 1917 và trẻ nhất 1955, kể lại cuộc đời họ.

Như tác giả cho hay, quan niệm của chính bà về cuộc chiến chịu ảnh hưởng từ trải nghiệm của cha mẹ.

https://baomai.blogspot.com/
  
Bản thân cha của tác giả, Nguyễn Triệu Đan, là Đại sứ cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa ở Nhật Bản (1974-75). Người cha rời miền Bắc Việt Nam năm 1950, mang theo bộ gia phả chữ Hán do người ông soạn, tiếp tục truyền thống học tập của gia đình.

Lấy bằng tiến sĩ luật ở Pháp, ông Đan trở thành nhà ngoại giao của Việt Nam Cộng Hòa, tham dự phái đoàn VNCH tại Hội Nghị Paris dẵn tới Hiệp định 1973.

Sau ngày 30/4/1975, gia đình tị nạn ở Melbourne, Úc.

Bà Nathalie Nguyễn từng gợi ý để cha viết lại hồi ký, nhưng ông không làm vì cảm thấy chủ đề còn quá đau đớn khi nhắc lại.

Nhưng bà Nathalie Nguyễn, sau khi nhận bằng tiến sĩ ở Đại học Oxford, vẫn băn khoăn khi giới viết sử hầu như bỏ qua trải nghiệm của người lính và thường dân miền Nam trong cuộc chiến kết thúc năm 1975.

Nữ quân nhân

https://baomai.blogspot.com/
  
Qua các câu chuyện cá nhân, cuốn South Vietnamese Soldiers như một lược sử về những người lính Việt Nam, bắt đầu từ thời tuổi trẻ đến khi họ tìm đường sang Úc.

Tác giả nhắc lại rằng Nam Việt Nam mất hơn 254.000 người lính trong cuộc chiến, với số người bị thương khoảng hơn 783.000.

https://baomai.blogspot.com/
Quân nhân Quân lực VNCH trong ảnh chụp năm 1968

Một chương sách dành để nói về Đoàn Nữ Quân Nhân Quân lực VNCH, một đối tượng ít khi được nhắc tới.

Vào lúc kết cuộc năm 1975, có khoảng 6.000 phụ nữ phục vụ trong Đoàn Nữ Quân Nhân. Miền Nam sụp đổ là "vết sẹo" lớn nhất trong cuộc đời nhiều phụ nữ này.

https://baomai.blogspot.com/
  
Một người phụ nữ kể về giai đoạn hậu chiến là "thời gian tuyệt vọng". Bà chạy sang Campuchia mang theo con trai, ở đó suốt năm năm để có thể sang trại tị nạn ở Thái Lan rồi sang Úc năm 1990.

Sau này, cũng người phụ nữ này quay về Việt Nam mỗi năm để giúp đỡ những thương phế binh VNCH.

Con trai bà hỏi sao mẹ cứ về Việt Nam, và "hãy quên đi những kỷ niệm đau thương".

Nhưng bà nói: "Nỗi đau mới làm mình biết nhớ."

https://baomai.blogspot.com/  

Úc công nhận cựu binh VNCH

Qua sách, người đọc biết thêm rằng từ 1980, Úc có chế độ công nhận cựu binh của các đồng minh qua việc cấp cho họ lương hưu. Chính sách ra đời từ nhu cầu đáp ứng cho các cựu binh thời Thế chiến Hai, nhưng cũng áp dụng cho các xung đột sau này như Chiến tranh Việt Nam.

https://baomai.blogspot.com/

Lính Úc tham chiến tại Nam Việt Nam từ 1965

Với nhiều cựu binh VNCH, việc nộp đơn xin chính phủ Úc công nhận là cựu binh đồng minh không chỉ để có tiền hưu, mà quan trọng hơn, để tự hào rằng họ được công nhận trong danh dự.

https://baomai.blogspot.com/
Quân lực VNCH trong một lần hành quân - ảnh do ông Hoàng Cơ Lân ở Paris cung cấp

Việc Úc công nhận cựu binh VNCH cũng giúp những người này có chỗ đứng trong lịch sử di dân và chiến tranh của Úc, giúp họ hòa nhập với cộng đồng cựu binh Úc.

Một cựu binh chỉ ra rằng ngay tại Mỹ, không có mức độ công nhận cựu binh VNCH nhiều như tại Úc.

Chính sách của Úc đã cho những người lính VNCH có được diễn đàn, tạo cho họ cơ hội đóng góp và tham gia những dịp Úc kỷ niệm cuộc chiến Việt Nam.
 
Những nghiên cứu tiếng Anh nổi bật về Việt Nam Cộng Hòa gần đây chủ yếu tập trung vào chính thể Tổng thống Ngô Đình Diệm (1955-63). Một phần lý do là sự mở cửa ngày càng cởi mở của các kho tư liệu về giai đoạn này ở Việt Nam.

Cuốn sách của bà Nathalie Huynh Chau Nguyen là một nỗ lực khác, và bà nói việc người ta cố "xóa sổ VNCH" khỏi cả lịch sử Việt Nam và ngành viết sử về chiến tranh đã là động lực cho nghiên cứu của bà.

https://baomai.blogspot.com/
On Saturday, October 13, 2018 2:19 PM, giao tran  wrote:
 
Nhật
Trường Trần Thiện Thanh
, người viết sử thi cho nhạc lính
Vương
Trùng Dương

Trong
bài viết của Trần Doãn Nho về “Nhạc Lính” đã ghi nhận: “Có khá nhiều tác giả viết về người lính: Y Vân, Trần Thiện Thanh, Nhật Ngân, Nguyễn Văn Đông, Lê Dinh, Anh Bằng, Minh Kỳ, Hoài Linh, Huỳnh Anh, Phạm Thế Mỹ, Đinh Miên Vũ, Phạm Đình Chương, Tuấn Khanh,
Lam Phương, Trúc Phương, Trầm Tử Thiêng, Nguyên Đàm, Nguyên Diệu, Phan Trần… Trong số đó, Trần Thiện Thanh là nhạc sĩ viết nhiều nhất…”. Còn có thêm Văn Giảng (Nguyên Đàm), Song Ngọc, Anh Thy, Duy Khánh, Mạnh Phát, Nhật Lệ, Hùng Cường, Mạc Phong Linh… hay
Anh Việt Thu (cùng làm việc chung với Nhật Trường ở Phòng Văn Nghệ, Cục Tâm lý Chiến và Đài Phát thanh Quân Đội) nhưng chỉ có một vài bài.
Nói
đến Nhật Trường TTT, liên tưởng đến nhạc lính và ngược lại. Sáng tác nhạc tình của TTT trong thời chinh chiến để làm thăng hoa hình ảnh người lính VNCH từ chiến trường đến hậu phương. Những ca khúc của anh không những in sâu vào tâm hồn người lính mà đi vào
lòng mọi người từ thời binh lửa cho đến nay.
*
Trần
Thiện Thanh sinh ngày 12 tháng 6 năm 1942 tại Phan Thiết. Trưởng nam trong gia đình có 7 anh em. “Thật sự dòng họ Trần Thiện từ ông tổ gần là Trần Thiện Chánh (1822-1874), tài kiêm văn vỏ, cho tới thân phụ của Trần Thiện Thanh là Trần Thiện Hải nức tiếng khắp
Phan Thiết là kẻ tài hoa, đủ đường ca hát, đóng kịch, soạn nhạc... cho nên ảnh hưởng tới con cháu như Nhật Trường là điều không ai phủ nhận…” (Hồ Đinh, người bạn cùng thời với TTT).
Ngoài
bút hiệu Nhật Trường, thỉnh thoảng đề tên Anh Chương (tên trưởng nam của anh với các ca khúc của như Tuyết Trắng, Chân Trời Tím (phổ thơ Nguyễn Văn Hạnh), Hãy Trả Lời Em, Tâm Sự Người Lính Trẻ, Ngày Ðầu Một Năm, Người Yêu Của Lính…). Sau nầy Trần Thiện Anh
Chương ở Hoa Kỳ làm truyền thông với bút hiệu Thanh Toàn (Trần Thiện Thanh Toàn là chú ruột).
Anh
cũng dùng bút hiệu Thanh Trân Trần Thị (tên con gái thứ nhì) qua một số nhạc phẩm khác như Chuyện Hẹn Hò, Phút Giao Mùa, Chuyện Lứa Ðôi…
(Có
một số bài hát nổi tiếng như Tình Ðầu Tình Cuối, Tình Thiên Thu, Bắc Ðẩu, Mầu Mũ Anh Mầu Áo Em, Tình Có Như Không… nhiều người nghĩ là của Trần Thiện Thanh, nhưng thật ra, đã được in với tên Trần Thiện Thanh Toàn, Thiếu Úy QLVNCH, em ruột Trần Thiện Thanh,
hy sinh trên chiến trận khi còn trẻ. Ca khúc Trên Đỉnh Mùa Đông là sáng tác của hai anh em).
Theo
lời người bạn Lê Hùng (Tiểu Đoàn Trưởng TĐ 341 Địa Phương Quân, tiểu khu Bình Thuận) học lớp Đệ Nhị cùng với Nhật Trường TTT ở trường trung học Ngô Đình Khôi niên khóa 1960-1961 ở Phan Thiết. Nhật Trường vừa là Trưởng Ban Văn Nghệ và cũng là cầu thủ (thủ môn)
đội túc cầu của nhà trường. Thân phụ Nhật Trường là Trần Thiện Hải, Trưởng Ty Thông Tin Bình Thuận, với môi trường đó qua chương trình phát thanh và văn nghệ cũng tạo thuận lợi cho Trần Thiện Thanh ca hát để giải trí. Trước đó, lúc còn nhỏ, Nhật Trường TTT
(cũng như Song Ngọc ở Long Xuyên) đã tham gia trong Ban Văn Nghệ 860 của Bảo An Đoàn ở Bình Thuận, có Mỹ Thể, Nguyễn Hữu Sáng (em Nguyễn Hữu Thiết, gốc Quảng Trị, sinh tại Phan Thiết)…

đam mê với kiếp cầm ca nên con đường học vấn bị dang dở và trong cái rủi có cái may khi rời quê nhà vào Sài Gòn để lập nghiệp… (Có vài bài viết cho biết năm 1958 Nhật Trường vào Sài Gòn lập nghiệp nhưng theo người bạn cho tôi biết cùng học với Trần Thiện Thanh
ở Phan Thiết thì sau khi đậu Trung Học Đệ Nhất Cấp (1958), vào Sài Gòn học, thỉnh thoảng xuất hiện ca hát vào dịp cuối tuần ở Phan Thiết. Có lẽ vào Sài Gòn học vì chặng đường Sài Gòn – Phan Thiết khoảng hai trăm km, đi về dễ dàng và thời điểm đó).
Đầu
thập niên 1960, Nhật Trường lập ban Tứ Ca Nhật Trường gồm anh và 3 nữ ca sĩ: Như Thủy (em gái), Vân Quỳnh và Diễm Chi. Băng nhạc Tiếng Hát Đôi Mươi trình bày nhiều ca khúc về lính, được nhiều người ái mộ.
Góp
mặt trong nền tân nhạc ở Sài Gòn qua các nhạc phẩm: Đừng Hỏi Tại Sao (1963), Anh Về Với Em (1964), Bảy Ngày Đợi Mong (1964), Đôi Ngã Đôi Ta (1964), Một Ngày Gần Đây (1964), Ngày Anh Đi (1964), Hàn Mặc Tử (1964), Đồn Vắng Chiều Xuân (1964), Không Bao Giờ Ngăn
Cách (1964), Nỗi Lòng Thanh Trúc (1964), Từ Đó Em Buồn (1964), Tình Yêu Thứ Nhất (1965), Người Yêu Của Lính (1965), Tâm Sự Mộng Cầm (1965), Một Đời Yêu Anh (1965), Đời Còn Nhiều Gian Dối (1965)…
Nhật
Trường TTT tuy chưa vào lính nhưng đã sáng tác vài ca khúc nổi tiếng như Anh Về Với Em, Ngày Anh Đi, Không Bao Giờ Ngăn Cách, Đồn Vắng Chiều Xuân… Và, ca khúc Người Yêu Của Lính gắn liền với tiếng hát Ngọc Minh. Trước khi vào lính, Nhật Trường xuất hiện trên
sân khấu và truyền hình với quân phục VNCH.
Năm
1965 nhập ngũ, Hạ Sĩ Quan phục vụ trong ngành Chiến Tranh Chính Trị. Đây cũng là môi trường của Trần Thiện Thanh khi “khoác áo treillis” sáng tác rất nhiều nhạc phẩm với các quân bnh chủng Hải, Lục, Không Quân VNCH.
Đề
cập đến nhạc lính như lời Trần Doãn Nho:
“Lính
ở đây là lính VNCH. Trong suốt những tháng năm dài chinh chiến, người lính là hình ảnh nổi bật trong cuộc sống, gắn chặt với cuộc chiến, diễn ra từng ngày từng giờ trên khắp đất nước. Gia đình nào, không ít thì nhiều, cũng đều có thân nhân nằm trong quân đội.
Những thắng, bại trên chiến trường của người lính đều nhất nhất ảnh hưởng đến cuộc sống của mọi người. Và bi kịch của chiến tranh gắn liền với bi kịch cá nhân của từng người lính…
Nhạc
lính, trước hết, nói về người lính, đã hẳn. Mà cũng là nói về chiến tranh. Về một xã hội vùng vẫy để tồn tại, để thích nghi với hoàn cảnh bom đạn. Và mơ ước. Những gian khổ, nhọc nhằn, vất vả, tiếc nuối, buồn chán, thất vọng, cay đắng, tủi nhục cùng với ước
mơ – những gì vô cùng đời thường, vô cùng dân dã, tất cả đều được bày tỏ qua lời ca mà không cần phải sử dụng một ẩn dụ xa xôi nào. Do đó, khác với nhạc đỏ – thứ nhạc để chỉ nhạc Cộng Sản nói chung thường mang tính tuyên truyền – nhạc lính đầy tính cách nỗi
niềm và mang tính nhân bản rõ nét.

Đặc biệt, khác với nhạc đỏ, nhạc lính không nhằm gây căm thù. Không những thế, trong một số trường hợp, còn kêu gọi xóa bỏ căm thù, kêu gọi tình thương, kêu gọi hòa bình. Lời ca phần lớn và chủ yếu nói về nhiệm vụ, về lòng hăng say, sự hy sinh, ca ngợi sự
chịu đựng gian khổ và lòng quả cảm của người lính. Và ngay cả khi đề cập đến cái chết anh hùng của những người sĩ quan chỉ huy trên chiến trường, ta cũng không hề thấy khêu gợi chút căm thù nào. Chỉ nói về cái chết, về sự hy sinh và nỗi tiếc thương…
Nhạc
lính đồng thời cũng là nhạc tình. Cũng là nhạc quê hương. Nói về lính cũng chỉ để nói về tình. Mặt khác, trong một số bản tình ca thuần túy, hình ảnh người lính cũng hiện diện. Có lẽ vì đời lính, tự bản chất, chứa đựng sự xa cách, nhớ mong, niềm tuyệt vọng
và bi kịch tình yêu…

Trong khi còn chiến tranh, nhạc lính được hát như một bày tỏ nỗi lòng, có khi như một bù đắp, của những người khoác chiến y…”
(Trần
Doãn Nho).
Từ
giã mái trường, từ giã người yêu khi, chàng trai trẻ đáp tiếng gọi của non sông, với nghĩa vụ tòng quân:
“Ngày
anh đi, ngày anh đi phượng rơi rơi ngàn lối
Áo
chinh nhân ép cánh thư ngày nào
Gửi
cho nhau lúc mới quen lần đầu
Ngày
anh đi ngày anh đi sông hồ in dáng em

Nếu anh là chiến sĩ đi xây đắp tương lai
Em
là người ở lại muôn đời đợi chờ anh.”
Khi
khoác áo chiến y, người yêu nơi hậu phương lúc nào cũng mong đợi lá thư từ đơn vị xa xôi nên dặn dò. Ca khúc “Nhớ Viết Thư Cho Em” qua tiếng hát của Lệ Thanh trên làn sóng phát thanh quá hay, nghe mà ngớ ngẩn, nghe mà ước mong có người yêu dễ thương như vậy
để xoa dịu tâm hồn người lính:
“Nhớ
viết thư cho em

bảo rằng dù xa cách đừng quên
Nhớ
viết thư cho em

mực nhòe trên trang giấy trắng
Em
biết đời phong sương
anh
đã chôn dĩ vãng trong tim
Sống
vui hiện tại và trọn đời anh cho tương lai
Nhớ
viết thư cho em
để
rạng ngời thêm trăng sáng nửa đêm
Nhớ
hái đôi hoa sim đặt vào lòng tờ thư thương mến
Em
muốn màu hoa sim
như
màu yêu tím của đôi ta
Tím
lên cuộc đời mà lòng ta thương mến nhau hoài”
(Trần
Thiện Thanh & Mạnh Phát)
Ca
khúc “Tình Thư Của Lính” thay cho lời tâm sự của người lính gởi cho người tình:
“Từ
khi anh thôi học, và từ khi anh khoác áo treillis
Từ
khi anh xa nhà, một ngàn đêm nhung nhớ giữa trời mây

Thư của lính không xanh màu trời như mơ ước đâu em.
Thư
của lính không thơm nồng hương, không nét hoa đa tình.
Thư
của lính ba lô làm bàn nên nét chữ không ngaỵ
Nhưng
thư của lính ghi giữa rừng cây khi nhớ em thật đầy”.
Ca
khúc “Tâm Sự Người Lính Trẻ” của TTT chia sẻ nỗi niềm:
“Từ
khi anh thôi học từ khi đôi lứa đôi đường
Từ
sông ngăn núi trở tạ từ không nói nên lời
Từ
khi gót sông hồ ngược xuôi ôi những đêm thật dài hồn nghe thương nhớ ai
Một
năm tìm vui nơi quan tái chưa về một lần dù chỉ một lần thôi”.
Trong
thời binh lửa, qua vài ca khúc trữ tình nầy, cảm nhận cuộc tình thật lãng mạn, dễ thương, quá đẹp khi xa nhau. Câu nói của Stefan Zweig “Dù cho biển cách núi ngăn, lòng hai ta cũng mãi không rời xa” đã thể hiện ở ca khúc Trần Thiện Thanh..
Bài
thơ “Cần Thiết” của Nguyên Sa đã một thời thay cho lá thư tình của tuổi học trò:
“Không
có anh lấy ai đưa em đi học về
Lấy
ai viết thư cho em mang vào lớp học
Ai
lau nước mắt cho em ngồi khóc
Ai
đưa em đi chơi trong chiều mưa”
Thì
ca khúc của Trần Thiện Thanh chia sẻ hình ảnh giữa người lính với người yêu sự “cần thiết” đó thật đáng yêu:
“Nếu
em không là người yêu của lính
Em
sẽ nhớ ai Chủ Nhật trời xinh
Em
sẽ nhớ ai đêm sương lạnh lùng

giữa chốn muôn trùng
Ai
viết tên em lên tay súng.
Nếu
em không là người yêu của lính
Ai
sẽ nhớ em chiều dừng hành quân
Ai
khẽ nhắc tên em muôn nghìn lần
Để
thấy cánh sao gần
Không
đẹp bằng hồ mắt giai nhân”
(Người
Yêu Của Lính)
Người
lính khó giữ đúng hẹn hò vì có khi vào giờ phút cuối phải thi hành nhiệm vụ của đơn vị đảm trách. Trong tình yêu phải có sự cảm thông cho nhau nên:
“Anh
hẹn em cuối tuần
Chờ
anh nơi cuối phố
Biết
anh thích màu trời
Em
đã bồi hồi chọn màu áo xanh”
Thế
rồi qua 7 ngày đợi mong, không gặp người tình và cuối cùng:
“Chiều
Thứ Bảy mưa rơi
Ai
bảo anh lại tới
Ai
bảo anh xin lỗi
Ai
bảo anh nhiều lời cho mắt em lệ rơi”
(Bảy
Ngày Đợi Mong)
Lời
trách yêu đó thật nhẹ nhàng, “lệ rơi” khi gặp nhau mà không cần xin lỗi, không cần nhiều lời… Lời ca đó dành cho người thưởng thức cảm nhận.
Những
người lính Mỹ (GI) tham chiến ở chiến trường VN, thường viết trên nón sắt
 “When
I die I will go to heaven because I live in hell” (Khi tôi chết sẽ lên thiên đàng vì sống trong địa ngục)

như “than thân trách phận” nhưng với Trần Thiện Thanh thì ngược lại:
“Viết
tên người yêu lên ba lô nặng trĩu
Đêm
quân hành dừng chân đồi hoa tím
Nhớ
xưa đôi mình hẹn nhau mà sao sáng
Đâu
bằng đôi mắt em…
Áo
anh nhuộm phong sương nhưng quê hương đẹp ý
Lối
trăng đầy tình em còn soi sáng
Sẽ
không bao giờ
Không
bao giờ ngăn cách đâu em”
(Không
bao Giờ Ngăn Cách)
Chỉ
có người lính nhớ người yêu mới viết tên trên ba lô, tâm hồn lãng mạn của người lính làm đẹp chân dung người tình trong cơn binh lửa.
Nhạc
phẩm “Màu Mũ Anh Màu Áo Em”, TTT phác họa chân dung người lính của các binh chủng với người yêu:
“Khi
em đã yêu anh chàng lính Thuỷ Quân Lục Chiến
Bạc
màu áo trận, bạc luôn cả chiếc mũ xanh
Khi
em đã yêu anh chàng áo rằn sọc ngang
Màu
áo xanh rừng em nhớ mang.
Hay
em đã yêu anh chàng lính Dù là anh

tung giữa trời và địa cầu dâng đất lên
Khi
em biết yêu thiên thần mũ đỏ dù hoa
Màu
áo bông hồng em nhớ cho…
Khi
em dám yêu anh bộ binh nghèo là anh
Thì
màu áo vàng là màu tình duyên đó anh
Xin
cho tháng năm không làm phai màu tình yêu
Màu
mũ anh và màu áo em
Khi
em đã yêu anh chàng lính biển là anh
Tầu
đi bến nào còn tình thì qua bến nao
Khi
em đã yêu anh chàng lính Hải Quân hào hoa
Màu
trắng mây trời trên áo em.
Hay
em đã yêu anh chàng lính Biệt Động Quân

rừng núi sình lầy nào còn vương gót anh
Khi
em đã yêu trên trời núi thẳm rừng sâu
Màu
mũ nâu là màu áo em”
Để
tưởng nhớ và tri ân những người con thân yêu của tổ quốc khi dấn thân trong binh nghiệp bảo vệ lý tưởng Quốc Gia, Dân Tộc. Thân xác không còn nhưng qua các ca khúc của Trần Thiện Thanh luôn gợi lại hình ảnh bi hùng, cao cả trong trái tim mọi người.
Hình
ảnh hào hùng của cố Đại Úy Nguyễn Văn Đương của binh chủng Nhảy Dù hy sinh trong cuộc chiến qua ca khúc “Anh Không Chết Đâu Anh” của Trần Thiện Thanh góp phần hình ảnh cao đẹp trong Quân Sử VNCH.
Phan
Nhật Nam tường thuật lại:
“…
Đồi 31 ở mặt trận Hạ Lào, tháng Hai, 1971.. Đại quân Miền Nam gồm: Sư Đoàn Nhẩy Dù, Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến, Sư Đoàn I Bộ Binh, Lữ Đoàn I Thiết Kỵ, và Liên Đoàn I Biệt Động Quân cùng vượt biên giới Lào-Việt tiến đánh vùng hậu cần Tchépone của cộng sản
Bắc Việt trên đất Lào. Lữ Đoàn 3 Dù gồm các Tiểu Đoàn 2, 3, và 8 giữ mặt Bắc của trục tiến quân. Vị trí Đồi 31 của Tiểu Đoàn 3 Dù được Pháo Đội B3 Pháo Binh Dù do Đại Úy Nguyễn Văn Đương chỉ huy yểm trợ. Vòng đai cực Bắc của Biệt Động Quân bị tấn công trước;
tiếp vị trí Đồi 30 của Tiểu Đoàn 2 Dù bị công phá.. Cuối cùng, chỉ còn lại Căn Cứ Đồi 31 giữa vòng vây của một sư đoàn Bắc Việt (tỷ lệ 1 chống 15). Ngày 25/2, Đồi 31 bị tràn ngập, Đại Tá Nguyễn Văn Thọ và toàn ban tham mưu lữ đoàn đồng bị bắt, căn cứ chỉ còn
khẩu pháo cuối cùng, Đại Úy Đương hạ ngang nòng bắn thẳng vào toán quân cộng sản theo xe tăng T54 ào lên đồi chiếm mục tiêu, và ông gục ngã với khẩu pháo cuối cùng bị phá hủy…”
Trong
cuốn hồi ký “Một Cánh Hoa Dù” của Thiếu Tá Trương Dưỡng đã kể lại thời điểm căn cứ hỏa lực 31 Hạ Lào (cao điểm 456) vào 6 giờ 30 phút ngày 25 tháng 2 năm 1971, như sau:
“Ngay
chiều hôm đó đồi 31 bị tràn ngập, tôi nghe tiếng Nguyễn Quốc Trụ, bạn cùng khóa, gọi Kiệt bên căn cứ A-Lưới là: “Xe tăng Việt Cộng đang trên hầm chỉ huy, mầy nói pháo binh bắn lên đầu tao, chờ tụi nó xuống tao sẽ tự tử, vĩnh biệt mầy, Kiệt ơi.” Căn cứ hỏa
lực 31 thất thủ, bên trong gồm Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù, BCH Trung Đoàn 3 Pháo Binh, Pháo Đội 33 của Nguyễn Văn Đương…”. Và, người hùng Pháo Đội Trưởng Nguyễn Văn Đương chấp nhận hy sinh để khỏi lọt vào tay Cộng quân.
Trần
Thiện Thanh viết lên lời ca vô cùng xúc động:
“Anh
không chết đâu anh, người anh hùng mũ đỏ tên Đương
Tôi
vẫn thấy đêm đêm một bóng dù sáng trên đồi máu
Nghe
trong đêm kêu gào từng tiếng súng pháo đếm mau

tiếng súng tiếng súng hay nhạc chiêu hồn đưa anh đi anh đi…

Ôi đất mát trên đồi xanh tình yêu khóc ngất bên cỏ tranh
Đâu
cánh dù ôm gió, đây cánh dù ôm kín đời anh
Trong
những tiếng reo hò kia lẻ loi tiếng súng anh nhiệm mầu
Ôi
tiếng súng sau cùng đó, anh còn nghe tầm đạn đi không anh
Không,
anh không, anh không chết đâu em, anh chỉ vừa bỏ cuộc đêm qua
Tôi
thấy mắt anh bên ngọn nến vàng hắt hiu niềm nhớ
Trên
khăn tang cô phụ còn lóng lánh dấu ái ân
Giọt
nước mắt nóng bây giờ và còn hằng đêm cho anh cho anh ....”
Ca
khúc “Anh Không Chết Đâu Anh” là một trong những ca khúc được trình bày trong một bộ phim truyền hình có tên là “Trên Đỉnh Mùa Đông” do Trần Thiện Thanh làm đạo diễn, ra mắt vào năm 1972.
Trong
bộ phim này, còn nhiều ca khúc bất hủ nữa của Trần Thiện Thanh cũng được hát: Trên Đỉnh Mùa Đông, Mùa Đông Của Anh, Chiều Trên Phá Tam Giang… Cuốn phim đã làm rơi lệ của biết bao nhiêu khán giả, đã mô tả được phần nào cái chết bi hùng của Đại Úy Nguyễn Văn
Đương tại chiến trường Hạ Lào, trong chiến dịch hành quân Lam Sơn 719.
Đồi
Charlie với cao độ 900 mét, Tây Bắc tỉnh Kon Tum, một cứ điểm quân sự để kiểm soát cả một vùng rộng lớn ngã ba Đông Dương... Địa danh này nổi tiếng với nhiều trận giao chiến khốc liệt giữa Quân Lực VNCH và đồng minh Hoa Kỳ với Cộng quân.
Ngày
25 tháng 3 năm 1972, Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù được trực thăng vận bốc vào vùng hành quân. Đơn vị thiện chiến nầy nhảy ngay trên đầu địch làm cho chúng bất ngờ và nhiều trăm tên bị tan xác tại đây, lúc này cuộc hành quân đang đi vào giai đoạn chót. Trung Tá Nguyễn
Đình Bảo cùng Đại Đội chỉ huy và Đại Đội 110 trấn giữ ngọn đồi, 3 Đại Đội còn lại đóng chung quanh ngọn đồi. Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn Nhảy Dù đóng ở xa vài chục cây số để yểm trợ.
Cộng
quân dốc toàn bộ toàn bộ pháo kích vào Charlie thật nặng, mỗi ngày hàng ngàn quả đại bác 130 ly, 122 ly và cả hỏa tiễn 122 ly…
Cộng
quân gia tăng quân số dù hàng ngàn cán binh trẻ từ miền Bắc đã bị nướng thiêu trong bom đạn nhưng họ vẫn ngông cuồng thí quân bao vây ngọn đồi Charlie. Dùng trận đánh “biển người” này, hầm chỉ huy của Trung Tá Nguyễn Đình Bảo đã lãnh trọn 1 trái đạn pháo 130
ly và anh đã hy sinh! Sau 4 ngày đêm chiến đấu, ngọn đồi Charlie đã bị mất, cộng quân tràn ngập. Xác chết của Trung Tá Nguyễn Đình Bảo tuy đã gói trong 3 lớp vải dù poncho nằm lại ở giao thông hào mà cũng bị bom đạn của quân ta trút xuống đánh bật Cộng quân,
cày nát xác thân anh.. Charlie đã tan tành, chung quanh chỉ là khói tro quyện với thây người chết của cả hai bên.
Cố
Đại Tá Nguyễn Đình Bảo hy sinh tại Charlie ngày 12 tháng 4 năm 1972 khi vừa đúng 35 tuổi.
Ca
khúc “Người Ở Lại Charlie” của Trần Thiện Thanh, một trong những ca khúc được nhiều người ngưỡng mộ với người chiến sĩ VNCH:
“Anh!
Anh! Hỡi anh ở lại Charlie
Anh!
Anh! Hỡi anh giã từ vũ khí
Vâng,
chính anh là ngôi sao mới
Một
lần này chợt sáng trưng

cánh dù đan bằng tiếc thương vô cùng…
Ngày
anh đi, anh đi anh đi từ tổ ấm
Anh
ơi, địa danh nào thiếu dấu chân anh?...
Toumorong,
Dakto, Krek, Snoul
Trưa
Khe Sanh gió mùa, đêm Hạ Lào thức sâu
Anh!
Cũng anh vừa ở lại một mình, vừa ở lại một mình
Charlie,
tên vẫn chưa quen người dân thị thành…
Xin
một lần thôi, một lần thôi
Vẫy
tay tạ từ Charlie
Xin
một lần nữa, một lần nữa
Vẫy
tay chào buồn anh đi”.
Với
binh chủng Thiết Giáp, nhạc phẩm “Bắc Đẩu” của TTT và Trần Thiện Thanh Toàn ghi: Tặng anh hùng mũ đen Bắc Đẩu Nguyễn Ngoc Bích”. Cố Thiếu Tá Nguyễn Ngọc Bích, Chi Đoàn Trưởng CĐ 2, Thiết Đoàn 18:
“Người
bỗng trở thành vì sao Bắc Đẩu
Lẻ
loi tinh cầu đêm đen không dấu
Một
tối chớm hè đạn pháo chuyển mưa
Cây
Cầu Ga nhỏ anh qua, anh qua…
Xin
muôn năm như vì sao sáng đó
Hỡi
người định mệnh là vì sao lẻ
Dậy
đi Bắc Đẩu, dậy đi Bắc Đẩu
Bừng
mắt dậy soi sáng thiên thu...
Người
tên Bắc Đẩu chết trận La Vang
Liệm
xác ba lần Ngọc bích cũng tan
Chỉ
còn vì sao thôi, chỉ còn vì sao thôi”
Ca
khúc Rừng Lá Thấp, TTT viết cho người bạn cùng quê ở Phan Thiết, Đại Úy Vũ Mạnh Hùng trong binh chủng Thủy Quân Lục Chiến, đã hy sinh khi chận quân địch tại Hàng Xanh, Cầu Bình Lợi trong trận Mậu Thân!
Đại
Úy phi công Trần Thế Vinh, đã vị quốc vong thân trên vùng trời Trị Thiên ngày 9 tháng 4 năm 1972. Ca khúc “Bay Lên Cao Đi Anh” của Trần Thiện Thanh không than khóc, ủy mị mà vẽ lên nét hào hùng chiến sĩ Không Quân:
“…
Cao bay lên cao, bay lên cao đi anh
Như
trong kỷ niệm, anh đạp gió xé mây trôi
Cao
bay lên cao, bay lên cao đi anh
Xin
linh hồn anh, lên trời cao bay thật mau
Xin
cho cao thêm cho thêm lên cao lên
Cao
câu nguyện cầu cho tuổi trẻ sớm đi xa
Xin
cho cao lên cho cao lên cao lên
Hãy
ngước nhìn không gian Việt Nam cao diệu vợi

Bay lên bay lên cao đi anh
Mang
theo hào hùng cho cuồng bão biết xôn xao
Bay
lên bay lên cao, bay lên cao đi anh
Thế
giới chìm sâu anh vừa qua còn mộng du
Cao
bay lên, cao bay lên cao, đi anh
Xin
linh hồn anh lên thật cao lên thật nhanh”
Với
Không Quân và Hải Quân, Trần Thiện Thanh tô đẹp biết bao hình ảnh của quân chủng nầy. Ca khúc Tuyết Trắng, TTT dùng hình ảnh mây trời như tuyết, quá tuyệt:
“Đây
áo bay màu xanh xanh như tình ái
Thắt
lại khăn ấm chính em đan
Khi
gió quay cuồng sau cánh bay
Con
tàu thét gầm cho tim ngất ngây
Phi
đạo chạy dài anh cất cánh bay lên…
Ngả
nghiêng cánh chim con tàu sẽ rời, rời xa thành phố rồi
Mây
giăng thật thấp mây đan lụa trắng mây pha màu nắng.
Vượt
cao vút cao mây trời kết thành một vùng tuyết trắng ngần
Tuyết
ơi xin nhuộm trắng trong tâm hồn em gái nhỏ tôi thương.
Khi
nắng chiều đi không gian chợt tối
Xóa
nhòa vùng tuyết trắng mông mênh
Anh
ước sao tình mình như tuyết trinh
Cho
dù chúng mình không gian cách ngăn
Cho
dù tuyết trắng đã chìm trong màn đêm”.
Nhạc
phẩm Hoa Biển của TTT và Anh Thy, đại lễ và quân phục của quân chủng, thủy thủ màu trắng, sóng biển màu trắng… tất cả đều là màu trắng giữa đại dương, màu hoa biển:
“…
Tại em suy tư bên bờ vắng
Nên
đêm vượt trùng anh mong tìm gặp hoa trắng về tặng em
Cho
anh thì thầm em ơi tình mình trắng như hoa đại dương
Trùng
khơi nổi gió lênh đênh triền sóng thấy lung linh rừng hoa
Màu
hoa thật trắng, ôi hoa nở thắm ngất ngây lòng thêm
Vượt
bao hải lý chưa nghe vừa ý, lắc lư con tàu đi
Chỉ
thấy bọt nước, tan theo ngọn sóng dáng hoa kia mịt mùng
Biển
khơi không mang hoa màu trắng
Tàu
anh xa xôi chưa tìm bến
Nên
em còn hờn, nên em còn buồn sao chưa thấy anh sang
Em
ơi giận hờn, xin như hoa sóng tan trong đại dương”
Ngoài
ra, TTT còn sáng tác Sư Đoàn I Bộ Binh VNCH Hành Khúc cho đơn vị nầy trấn đóng ở vùng giới tuyến.
“Đây
Sư Đoàn 1, đây Sư Đoàn Giới Tuyến
Chiến
Sĩ Tiền Phong nơi tuyến đầu Việt Nam
Lam
Sơn oai hùng, tay xây đài chiến thắng
Súng
thép đập tan quân Bắc phương hung tàn…
Quân
Dân chung lòng, vang câu hò chiến thắng
Chiến
thắng lừng danh, cao ngất như Trường Sơn
Gian
nguy coi thường, ta kiên cường chiến đấu
Quyết
chí đập tan quân Bắc phương ngông cuồng”.
*
Trong
tâm hồn lãng mạn, đa tình của ca sĩ và nhạc sĩ, Nhật Trường Trần Thiện Thanh có nhiều hệ lụy với cuộc tình. Ngay thời còn đi học, có phải cô nữ sinh (Nhường) là mối tình đầu? và, tiếp đó cô nữ sinh Hồ Mỵ Châu, đẹp nổi tiếng ở Chợ Lầu cùng chàng trai trong
mối tình ở trường Ngô Đình Khôi… chỉ là bóng mây.
Bài
viết Những Bài Hát Của Một Thời Binh Lửa của Phạm Tín An Ninh ghi lại mẩu chuyện: “Sau mùa hè 1972, đơn vị tôi từ chiến trường Kontum được chuyển về dưỡng quân một tháng tại hậu cứ Sông Mao, Phan Thiết. Trong một đêm văn nghệ do tỉnh Bình Thuận tổ chức ủy
lạo chiến sĩ, bất ngờ có sự tham gia của ca sĩ Nhật Trường nhân dịp anh từ Sài Gòn về thăm quê (quê anh ở Phan Thiết). Lúc ấy anh còn trẻ, đẹp trai và hoạt bát. Anh ngồi chung bàn với tôi. Trong lúc tâm tình, khi nghe tôi nói là ngày mai sẽ về thăm vợ ở Ninh
Hòa, anh tròn mắt nhìn tôi rồi ghé vào tai tôi nói nhỏ, có một thời anh đã say mê một cô gái Ninh Hòa. Sau đó anh lên sân khấu hát tặng tôi bài Mùa Đông Của Anh, và nhờ tôi chuyển đến cô gái Ninh Hòa nào đó hai câu:
...
Xưa hôn em một lần mà đau thương tràn lấp...
Anh
yêu em một ngày rồi xa em trọn kiếp...”
Và,
trong tình trường, không phải lúc nào cũng toại nguyện, có khi mang lại nỗi đau mà nhạc sĩ tỏ bày trong “Hoa Trinh Nữ” như: “Tôi chỉ là người lính phong trần. Thấy hoa nhớ người yêu rất xa” mà một thời dư luận cho rằng tác giả yêu nàng ca sĩ nhưng nàng chắp
cánh với “ông hoàng” ở cao nguyên.
Trên
trang mạng
traixuviet.wordpress.com
ghi lại cuộc tình và cuối đời của Trần Thiện Thanh:
“…
Người vợ đầu tiên của nhạc sĩ Trần Thiện Thanh thành hôn với ông tại Phan Thiết khi ông chưa đầy 20 tuổi, trước khi hai người cùng vào Sài Gòn sau đó. Chị Trần Thị Liên và ông có với nhau 4 người con, 2 trai, 2 gái là Anh Chương, Thanh Trân, Thanh Trúc và
Anh Châu.. Tuy nhiên hai người đã chia tay nhau một thời gian trước biến cố tháng 4 năm 75.
Trong
thời gian còn ở lại Việt Nam sau năm 75, khi thường đi trình diễn chui ở các tỉnh miền Nam, Nhật Trường sống chung với Kim Dung, trước đó cũng là một ca sĩ trong Biệt Đoàn Văn Nghệ Trung Ương.
Gần
gũi nhau trong những lần diễn với nhiều khó khăn đó, họ đã trở thành vợ chồng và vài năm sau hai người có với nhau một con trai tên Anh Chính, (sau nầy theo Nhật Trường sống chung với Mỹ Lan ở Nam California). Nhưng cuộc sống vợ chồng giữa Kim Dung và Nhật
Trường cuối cùng cũng đã đi đến đổ vỡ. Và người vợ thứ hai của ông hiện cũng đã có gia đình khác ở Việt Nam.
Vào
năm 1993, Nhật Trường Trần Thiện Thanh rời Việt Nam sang Hoa Kỳ theo diện “fiancé” do nữ  ký giả Nam Trân bảo lãnh. Tuy nhiên sau đó, lục đục xẩy ra giữa hai người nên tình trạng của Trần Thiện Thanh không được hợp thức hoá theo diện di trú, cho đến khi được
người con trai trưởng của ông là Anh Chương, qua Mỹ trước đó và đã có quốc tịch Hoa Kỳ, đứng đơn bảo lãnh.
Tuy
vậy tình trạng cư trú của ông vẫn chưa được chấp nhận. Phải đợi mãi cho đến ngày 12 tháng 5 năm 2004, tức 6 tháng trước khi phát hiện ra bệnh ung thư phổi và 1 năm trước khi mất, ông mới bất ngờ nhận được “green card” để có thể đi trình diễn ngoài nước Mỹ.

Nhật Trường và Mỹ Lan trước khi ra hải ngoại cũng đã biết nhau qua những lần cùng đi diễn ở các tỉnh ở miền tây. Thời đó Mỹ Lan còn là một vũ công thường theo các đoàn hát đi lưu diễn đó đây trong những năm 76, 77. Tuy nhiên giữa hai người chẳng hề có một
ấn tượng nào về mặt tình cảm.
Nhưng
định mệnh đã đưa đẩy họ đến gần nhau vào năm 1993. Đó là năm Nhật Trường sang Mỹ và cư ngụ tại Nam California vào tháng 3…

Sau mười mấy năm không hề liên lạc, lần đầu tiên Nhật Trường và Mỹ Lan gặp lại nhau trên đất Mỹ vào ngày 29 tháng 5 năm 1993 trong một chương trình đại nhạc hội do cố ca nhạc sĩ Duy Khánh tổ chức tại Seattle, tiểu bang Washingon. Trước đó, mỗi người có một
đời sống gia đình riêng tư phải lo lắng.

Và từ khoảng giữa thập niên 90, người ta thường thấy tên tuổi Nhật Trường – Mỹ Lan xuất hiện tại các chương trình nhạc hội tổ chức tại nhiều nơi trên đất Mỹ cũng như trong những buổi văn nghệ có tính cách cộng đồng hay từ thiện.

Mãi đến năm 1985, Mỹ Lan mới bước chân vào con đường đi hát chuyên nghiệp. Đến năm 86, chị bắt đầu được biết đến tên tuổi. Và đến thời kỳ được nhiều người chú ý thì Mỹ Lan cùng chồng con được hai chị Mỹ Hoa và Mỹ Phương bảo lãnh sang Canada. sau khi mẹ và
một chị khác là Mỹ Vân đã được bảo lãnh qua đây  từ trước. Họ cùng đoàn tụ tại thành phố Montreal vào năm 1988.
Vài
năm sau khi cư ngụ tại thành phố này, cuộc hôn nhân giữa Mỹ Lan và người chồng đầu tiên đi đến đổ vỡ sau khi có với nhau 2 con trai…
Sau
12 năm sống với Nhật Trường Trần Thiện Thanh, từ năm 1993 đến khi ông qua đời vì bệnh ung thư phổi (1 giờ 5 phút trưa ngày 13 tháng 5 năm 2005, Nhật Trường Trần Thiện Thanh trút hơi thở cuối cùng)
Với
Mỹ Lan, ông có được cháu trai Trần Thiện Anh Chí. Ngoài ra đứa con trai tên Anh Chính với người với người vợ thứ nhì là Kim Dung cũng ở cùng với ông và Mỹ Lan (lúc mới 8 tuổi).

Sau khi Nhật Trường Trần Thiện Thanh nằm xuống, dĩ nhiên không ít thì nhiều đã xẩy ra những tranh chấp giữa những người con của người vợ đầu tiên, đặc biệt là người con trai cả của ông với người vợ cuối đời của ông. Đó là những gì đã xẩy ra mà Trần Thiện Thanh
đã biết trước.
Tuy
nhiên theo Mỹ Lan, chị cho biết nếu những người con của ông làm được những điều chị muốn làm cho Trần Thiện Thanh thì chị sẽ sẵn sàng hợp tác trong việc duy trì và  phổ biến những tác phẩm của ông. Nhưng dù thế nào, Mỹ Lan vẫn tiếp tục theo đuổi con đường
của mình. Những gì chị đã, đang và sẽ làm, Mỹ Lan cho là đúng và nếu những người con của Nhật Trường Trần Thiện Thanh muốn hợp tác trong cùng mục đích như vậy là một điều rất tốt”.
Ngày
29 tháng 5 năm 2014 Thanh Toàn (TTAC) qua đời tại Texas. Thật ra, khi Trần Thiện Thanh qua đời, vấn đề tranh chấp nhà cửa và bản quyền không có gì trầm trọng vì tình nghệ sĩ trong gia đình với nhau, dành cho đứa con thơ là Trần Thiện Anh Chí và Mỹ Loan là
người giám hộ. Thế nhưng có vài tờ báo xé chuyện nầy ra to, làm đau lòng người quá cố!
Với
tài hoa sáng tác của Trần Thiện Thanh, có nhiều bài viết, ca khúc “Trần Thiện Thanh, Dòng Nhạc Một Thời Chinh Chiến” của Thụy Long với lời ca, vinh danh người nằm xuống:
“Xin
cám ơn anh, một thời chinh chiến
Tay
ôm đàn, ôm súng viết tình ca
Tầm
đạn bay xuyên qua từng nốt nhạc
Những
trận hành quân để biết nhớ nhà…
Cám
ơn anh, cám ơn anh gót giày saut áo trận
Mang
vào đời những dấu vết yêu thương
Giọt
mồ hôi mặn mà thêm thân phận
Tiếng
hát anh làm rung động cả chiến trường.
Những
khúc tình ca một thời chinh chiến
Anh
viết cho người góa phụ ngây thơ
Cho
bà mẹ già chờ tin chiến tuyến
Chưa
thấy con về, chưa thấy con về mắt đỏ bơ vơ...”.
Nếu
cho rằng sử thi là dòng thơ ghi chép lại giai đoạn lịch sử nào đó thì những ca khúc của Trần Thiện Thanh, có thể nói lời ca của mỗi ca khúc là mỗi bài thơ được bay bổng theo giai điệu của nhạc phẩm qua cung bậc… gom lại thành sử thi của thời chinh chiến.
Khoảng
hai trăm ca khúc của Trần Thiện Thanh, có một phần ba mang theo hình ảnh người lính, người yêu của lính khi yêu nhau, lúc nhỏ lệ dưới vành khăn tang.
Nhật
Trường Trần Thiện Thanh đã trở về với cát bụi nhưng tiếng hát và nhạc phẩm của anh vẫn tỏa sáng nơi xứ người. Với người lính năm xưa, nhạc và lời của anh vẫn còn vang vọng, bay bổng trong cánh dù, thấp thoáng giữa mây trời, tuyết trắng, bồng bềnh cùng hoa
biển với đại dương. Anh là người thiên cổ nhưng “anh không chết đâu anh”: Nhật Trường Trần Thiện Thanh.
Vương
Trùng Dương
Little
Saigon, Oct 2018
(Người
Lính & Chiến Hữu Văn Nghệ)



From: Hy-Van Nguyen <hyvannguyen8@gmail.com>
To: Le huu Trung <thoakimle@sbcglobal.net> 
Sent: Saturday, October 13, 2018 12:14 PM
Subject: Check $200.00 của chị đến hôm nay

                                Chị Trung thân mến:
Món quà tình nghĩa cho TPB Phan Thế Duyệt của chị đến hôm nay.
Cũng cùng ngày trò chuyện với chị thì tối đó anh TPB Duyệt đã ra đi.
Chắc hôm nay, tang lễ đã xong (thứ bảy ở Việt Nam) và đại diện cho những ân nhân của anh Duyệt, người đại diện chúng ta đã đến tiển đưa và phúng điếu, góp phần tài chánh giúp cho gia đình của anh Duyệt.

Khi nghe anh vào bệnh viện, người đại diện đã gặp anh và ứng trước US$500.00 tận tay anh để lo bệnh viện phí. Ít ra, anh Duyệt cũng đã cảm nhận phần nào từ tâm của các anh chị em chúng mình.
Một phút yên lặng tưởng nhớ người chiến sĩ VNCH.
                                       Hy-Văn


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét