Thứ Bảy, 18 tháng 11, 2017

Hoa Kỳ được thế giới mặc nhiên tôn vinh làm bá chủ Nguyễn Cao Quyền

Hoa Kỳ được thế giới mặc nhiên tôn vinh làm bá chủ

Nguyễn Cao Quyền 
Inline images 1

- Trong những năm gần đây, dư luận chung cho rằng cán cân quyền lực đang chuyển dần từ Mỹ sang một số nước đang nổi trong đó có Trung Quốc.

Báo cáo Global Trend 2015 của News Week cũng cho rằng một trật tự thế giới hậu Hoa Kỳ đang xuất hiện, không phải vì Mỹ đã suy yếu mà vì các nước khác đang lớn mạnh. Báo cáo này cho rằng vào đầu năm 2025 Mỹ sẽ không còn giữ vị thế siêu cường duy nhất mà chỉ còn là một nước thứ nhất giữa các quốc gia ngang hàng (first among equals).

Nhận định trên đây có nhiều phần không chính xác nên cần được góp ý thêm trong những đoạn viết tiếp theo. Xin mời qúy độc giả tiếp tục theo dõi.

Sức lớn mạnh mau chóng của Trung Quốc đang được thế giới quan tâm

Được quan tâm nhiều nhất trong số các nước đang nổi ấy là Trung Quốc. Trước sự lớn mạnh nhanh chóng của Trung Quốc, nhiều nhà phân tích cho rằng Trung Quốc sẽ thống trị thế giới sau Hoa Kỳ. Một trong những nhà phân tích đó là tác giả người Anh tên Martin Jacques với tác phẩm “When China Rule The World” xuất bản năm 2009.

Martin cho rằng việc đó chỉ còn là vấn đề thời gian. Tiêu chí đầu tiên để Martin Jacques khẳng định như vậy là mức tăng trưởng kinh tế của Hoa Lục. Ngoài sức mạnh kinh tế tác giả còn nêu ra một số yếu tố khác như văn hóa, văn minh… Tác giả cho rằng vào giữa thế kỷ này Bắc Kinh sẽ trở thành thủ đô của thế giới.

Tác giả cũng cho rằng hầu hết các nước Á Châu sẽ chấp nhận sự bá chủ của Trung Quốc và như vậy hệ thống chư hầu (tributary system) có thể coi như đã quay lại Á Châu ngay từ lúc này. Trung Quốc giờ đây đã có thể thách thức trật tự thế giới do các nước Phương Tây thiết lập. 

Lập luận quá đơn giản và thiếu dẫn chứng của Martin Jacques không mang lại nhiều thuyết phục nên chúng ta lại phải đào sâu thêm thực chất của vấn đề.

Thật ra Trung Quốc không có triển vọng nào để mong đợi 

Một tác giả người Anh khác, trái lại đã bác bỏ hoàn toàn lập luận của Martin Jacques. Tác giả này tên Will Hutton với tác phẩm “The writing on the Wall: China and the West in the 21st Century” xuất bản năm 2007.

Theo Hutton, Trung Quốc chẳng có triển vọng nào để thống trị thế giới vì nước này đang phải đối diện với sự nhập nhằng về bản sắc và những yếu kém về kinh tế, nên chính những điều này không cho phép Trung Quốc áp đặt sức mạnh cứng và sức mạnh mềm lên các nước khác.

Thể chế chính trị độc đoán của Trung Quốc không phải là điểm mạnh mà là một nhược điểm vì nó không có cơ chế kiểm soát và cân bằng quyền lực. Kinh tế của Trung Quốc vừa mạnh nhưng lại vừa yếu. Mô hình kinh tế hiện tại của nước này chủ yếu dựa trên xuất khẩu và tiết kiệm không thể tồn tại mãi mãi. Để thay đổi, Trung Quốc cần có một sự thay đổi về chính trị.

Người Trung Hoa không tin tưởng vào tương lai vì họ biết rằng Đảng CSTQ không thể mãi mãi duy trì quyền lực. Will Hutton cho rằng, vì những lý do trên, trong tương lai Hoa Kỳ và Phương Tây vẫn dẫn đầu.

Và Trung Quốc cũng chẳng mang được cái gì mới lạ cho nhân loại

Trong số những người phủ nhận quan điểm cho rằng trật tự thế giới hiện tại sẽ bị đe dọa bởi sự lớn mạnh của Trung Quốc, còn có một giáo sư đại học Princeton người Mỹ tên là John Ikenberry.

Ông này cho rằng Trung Quốc chẳng mang đến cho hệ thống tổ chức và điều hành thế giới một cái gì mới mẻ và đặc trưng. Do đó những dự đoán là Trung Quốc sẽ khởi xướng một trật tự thế giới mới là sai lầm.

Một bài viết khác của tác giả Mixin Pei, người Trung Hoa đăng trên tuần báo Newsweek ngày 8/12/2009 cũng cho rằng viễn cảnh Trung Quốc tạo ra một trật tự thế giời mới để từ đó leo lên làm bá chủ nhân loại là xa vời. 

Một trong hai lý do quan trọng mà Mixin Pei đưa ra là những khó khăn kinh tế hiện tại của nước này. Mọi chuyện không phải là xuôi chảy và đơn giản như mọi người tưởng tượng. Vấn đề thứ hai được đặt ra là nếu Trung Quốc thực sự mạnh thì tại sao Bắc Kinh lại không đóng một vai trò quan trọng hơn trong các vấn đề quốc tế. Câu trả lời là điều mà Bắc Kinh ưu tiên quan tâm hiện tại là làm sao ổn định được tình hình chính trị trong nước. Vì những lý do trên nên Mixin Pei cho rằng Trung Quốc sẽ không thể thống trị thế giới trong tương lai như Martin Jacques dự báo. 

Như vậy phải lý giải ra sao?

Với sự sụp đổ của mô hình cộng sản thế giới vào những năm đầu của thập kỷ 1990 mô hình của Mỹ đã trở thành vĩ đại và được ưa chuộng khắp nơi trên thế giới. Hợp Chúng Quốc Hoa Kỳ đã ngự trị thế giới không phải chỉ vì sức mạnh kinh tế mà còn về nhiều mặt khác như khoa học, kỹ thuật, văn minh, văn hóa… nói tóm lại là vì vị thế “bá chủ” của nước này.

Về phương diện kinh tế. Hoa Kỳ tượng trưng cho 25% của sức sản xuất thế giới. GDP của Hoa Kỳ cao gấp rưỡi GDP của Nhật Bản. Với sức sản xuất vô địch như vậy Hoa Kỳ đương nhiên là quốc gia mạnh nhất hoàn cầu về phương diện mậu dịch. Nhờ những xí nghiệp đa quốc gia mang quốc tịch Mỹ, Hoa Kỳ đầu tư khắp nơi khắp chốn trên mặt địa cầu. Đồng đô la Mỹ được ưa chuộng trong mọi giao dịch quốc tế. 

Hoa Kỳ đồng thời cũng là một mô hình văn hóa được cả thế giới ưa thích. Tiếng Anh được thông dụng khắp hang cùng ngõ hẻm. Phim ảnh âm nhạc và cách sống văn minh được cả thế giới bắt chước.

Vì có sức mạnh và một nền văn minh lan tỏa khắp thế giới Hoa Kỳ được thế giới mặc nhiên tôn vinh làm bá chủ. Hoa Kỳ chinh phục thế giới không bằng vũ lực như đế quốc cộng sản ngày nay hay những đế quốc La Mã, Mông Cổ, Trung Quốc, Anh Quốc thời xưa, mà bằng sức mạnh của dân chủ tự do. 

Và phải kết luận thế nào?

Để có thể làm bá chủ thế giới, một cường quốc cần hội đủ năm điều kiện sau đây. Nếu nhận xét một cách thực tế và khoa học thì phải nói rằng Trung quốc còn lâu, và cũng có thể là không bao giờ, trở thành bá chủ của thế giới.

Điều kiện kinh tế: Gần đây nền kinh tế của Trung Quốc đã tăng trưởng một cách nhanh chóng. Tuy nhiên đó chỉ là một sự tăng trưởng về kích thước chứ không phải là một sự tăng trưởng về chất lượng và ngay cả về kích thước thì số lượng tăng trưởng ấy cũng chỉ đủ để chạy vào túi những người thuộc giai cấp lãnh đạo.

Chúng ta cần để ý rằng hiện tượng nói trên không xảy ra ở nước Mỹ. Không xảy ra ở Mỹ vì ở Mỹ nền kinh tế quốc doanh không có chỗ đứng, trừ một vài lãnh vực thật cần thiết. Tại Mỹ nền kinh tế tự do là cơ sở căn bản cho hệ thống tài chánh toàn cầu. Hơn 80% của khối lượng trao đổi tài chánh thế giới được thực hiện bằng đồng đô la Mỹ, và chừng nào đồng đô la ấy còn được thế giới tin cậy thì uy tín kinh tế của Mỹ chưa thể bị ai đánh bại.

Điều kiện quân sự: Sức mạnh và sự tân tiến của quân đội Hoa Kỳ hiện nay vẫn chưa bị nước nào qua mặt. Ngân qũy quốc phòng của Mỹ là 37% ngân qũy quốc phòng của tất cả các quốc gia trên thế giới và tỷ lệ này sẽ không suy xuyển trong thời gian.

Ngân sách quốc phòng Mỹ vào lúc này vẫn là bốn lần ngân sách quốc phòng của Trung Quốc. Quân lực của Mỹ được dàn trải rộng khắp trên mặt địa cầu và cho đến nay vẫn chưa có dấu hiệu thuyên giảm. 

Gần đây Hoa Kỳ có cắt bớt tài khoản dành cho quân số thì những tài khoản này lại được dùng để làm mạnh thêm cho các binh chủng hải quân và không quân chứ không phải là những dấu hiệu suy nhược. Trung Quốc làm sao theo nổi Mỹ về phương diện này trong thời gian trước mắt.

Điều kiện chính trị: Sức mạnh chính trị của một quốc gia phải được lượng định theo nhiều chiều kích. Đối với nước Mỹ ngoại viện là chất xi-măng gắn liền Washington với các thủ đô khác trên thế giới. Từ lâu, ngoại viện Mỹ đã trở thành quen thuộc trên khắp nẻo đường của nhân loại và đã đánh bại được nhiều cảnh nghèo đói khổ cực.

Muốn có một chính sách ngoại giao tốt đẹp không phải nước nào cũng làm được. Điều kiện trước tiên cần phải có là sự ổn định trong nước. Vì Mỹ là một nước tự do dân chủ lâu đời nên sự ổn định là một vấn đề tự nhiên. Năm mươi triệu dân Mỹ hiện nay là người sinh trưởng ở nước ngoài. Con số này là vô địch. Ai cũng nhìn về nước Mỹ như một thiên đường hạ giới.

Điều kiện khoa học tiên tiến: Trong 9 công ty có trình độ kỹ nghệ cao của thế giới thì 8 công ty là của Mỹ. Nếu ta chú ý đến trình độ kỹ thuật siêu đẳng của công nghệ thì phải thấy con số 8 nói trên là qúy trọng.

Tuy sinh sau đẻ muộn nhưng Hoa Kỳ cho đến nay lúc nào cũng là quốc gia sản xuất nhiều dầu hỏa và khí đốt nhất thế giới. Các đại học và định chế khoa học của Mỹ được cả thế giới ngưỡng mộ và lúc nào cũng cung cấp cho nước Mỹ đầy đủ những điều kiện cần thiết để phát triển. Hơn 30% số tiền nghiên cứu khoa học của thế giới đã được chi tiêu tại Hoa Kỳ.

Điều kiện văn hóa và văn minh: Có thể nói là Hoa Kỳ có một trình độ văn hoá và văn minh tiên tiến nhất thế giới hiện nay. Con số người di cư, bỏ quê cha đất tổ, bỏ nơi chôn rau cắt rốn, đến Hoa Kỳ sinh sống chứng tỏ kịch bản này.

Sự phát triển văn minh và văn hóa của Hoa Kỳ là một sức mạnh không nước nào bì kịp. Thử nhắm mắt lại để tưởng tượng sức mạnh vô địch này rồi đem so sánh với những gì đã và đang xảy ra ở Trung Quốc, thì có thể tin rằng còn lâu Trung Quốc mới bắt kịp Hoa Kỳ còn việc có thể thay thế được Hoa Kỳ hay không thì quả là một điều “vô vọng”./.

18.11.2017



Nguyễn Cao Quyền

Hoa Kỳ có thể rời bỏ Biển Đông ?

Published: 17/11/2017 | By: VQ1
Biển Đông gồm Trường Sa và Hoàng Sa thuộc chủ quyền Việt Nam, trước đây được xem như vùng biển quốc tế để các thương thuyền, chiến hạm lưu hành tự do. Từ khi Trung Cộng tự nhận chủ quyền “hình lưỡi bò chín đoạn”, bồi đắp đảo tân tạo và đặt cơ sở quân sự thì Biển Đông dậy sóng. Sự căng thẳng giữa  Trung Cộng (TC) và Hoa Kỳ (HK) trên Biển Đông càng ngày càng cao, từ can thiệp ngoại giao, tuần tra quân sự, tập trận bắn đạn thật liên tục xẩy ra trong vùng… Việt Nam, với địa chính trị quan trọng, trở thành tâm điểm để các cường quốc kéo vào quỹ đạo của mình… Vấn đề đặt ra là HK có dám bỏ Biển Đông mà giữ được vị thế siêu cường trong thế kỷ thứ 21 hay không? Từ đó cho ta viễn ảnh về quan hệ Mỹ-Việt  trong tương lai.
 
1) Hoa Kỳ thay đổi chiến lược biển sau Chiến Tranh Lạnh (1945-1991):
Sau khi khối Cộng Sản tan rã năm 1991, chiến tranh lạnh chấm dứt. Năm 1992, HK lập tức thay đổi chiến lược biển toàn diện.  Phân chia những hạm đội hải quân “đóng chốt” tại các eo biển có tuyến hàng hải huyết mạch trên thế giới nhờ các lực lượng HKMH thuộc lớp Nimitz, các đội Tàu Ngầm và chiến hạm chạy bằng năng lượng nguyên tử, không cần tiếp tế nhiên liệu. 
Riêng tại vùng biển  Tây-Nam Thái Bình Dương, Mỹ kiểm soát những eo biển huyết mạch nằm trên một chuỗi nối tiếp, dễ dàng và nhanh chóng hỗ trợ nhau khi hữu sự. Những eo biển do Hải Quân Mỹ làm “cảnh sát” gồm: Eo biển  Luzon  (Luzon Strait giữa Philippines và Đài Loan),  eo biển Makassar (Makassar Strait giữa đảo Borneo và Celebes Indonesia, nối biển Java và Celebes), eo biển Sunda (Sunda Strait giữa đảo Java và Sumatra Indonesia, nối Ấn Độ Dương với biển  Java); Và eo biển Malacca (Malacca of Strait giữa Mã Lai và Indonesia, nối liền Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương).
Về mặt chiến lược, giữ an ninh những eo biển này tức sẽ giữ dược tuyến hàng hải Ấn Độ – Thái Bình Dương và làm chủ ba chiến lược: giữ an toàn tuyến đường biển chở dầu từ Trung Đông qua Ấn Độ Dương sang Thái Bình Dương, bảo vệ an ninh tuyến đường thương mại mà Mỹ có 60% lượng hàng hoá đi qua hàng ngày, và bảo vệ các nước châu Á Thái Bình Dương mà TT Trump cho là “chòm ngân hà”, đó là vùng đất vàng trong thế kỷ thứ 21.
Những eo biển thuộc Tây-Nam Thái Bình Dương mà Hải Quân Mỹ  thường xuyên kiểm soát
2)  Muốn thành cường quốc phải là cường quốc biển (Sea Power)
Từ thế kỷ thứ 19, Đô Đốc Hải Quân HK Alfred Thayer Mahan (1840-1914) một chiến lược gia lừng danh của Mỹ mà sử gia  John Keegan người Anh gọi Mahan “là chiến lược gia quan trọng bậc nhất của HK trong thế kỷ thứ 19” (1).  Alfred Mahan khẳng định chỉ có sức mạnh trên biển mới giúp các nước trở thành cường quốc chứ không phải sức mạnh trên đất liền. Cuốn The Influence of Sea Power Upon History, 1660–1783 xuất bản năm 1890 của ông là  kim chỉ nam cho những nhà hoạch định chiến lược của các nước thực dân châu Âu đi xâm chiếm thuộc địa.
Theo Mahan, muốn trở thành cường quốc biển, cần những điều kiện như vị trí địa lý của quốc gia tiếp giáp với mặt biển; Có bờ biển đủ rộng và thuận lợi cho hoạt động quân sự, kinh tế và thương mại; Có sức mạnh để bảo vệ vùng biển của mình; Và có phương tiện hữu hiệu cho việc di chuyển trên biển. Lý thuyết đó đã tác động mạnh vào các nước thực dân châu Âu, họ đua nhau đóng chiến hạm vượt đại dương xâm chiếm thuộc địa khắp năm châu bốn bể vào hậu thế kỷ thứ 19 kéo dài đến nửa thế kỷ 20.  Thực dân Anh chiếm Ấn Độ để có Ấn Độ Dương, thực dân Pháp chiếm Việt Nam để có Biển Đông, thực dân Hà Lan chiếm Indonesia xem như chiếm biển Nam Dương v.v..  tất cả đều muốn làm “Cường Quốc Biển” như chiến lược gia Mahan đề xướng.
3) Hoa Kỳ chuẩn bị Siêu Cường Biển
Trong khi chiến lược gia Mahan người Mỹ vạch ra chiến lược “cường quốc Biển” và các nước châu Âu nhanh chóng dùng làm phương châm trở nên những đế quốc Thực Dân xâm chiếm thuộc địa khắp nơi để làm giàu cho mẫu quốc, thì HK không dùng tàu chiến xâm lăng thuộc địa, mặc dù thừa khả năng. Thế giới lúc đó ngạc nhiên thắc mắc: Lẽ nào Mỹ không muốn thành cường quốc? Hay người Mỹ thấy quyền lợi mà không ham? Thật phi lý, ai cũng biết chủ nghĩa của Mỹ là chủ nghĩa “thực dụng” vì quyền lợi…
Nhìn vậy mà không phải vậy, Mỹ không tranh cường quốc biển mà chuẩn bị cho vị thế Siêu Cường Biển. HK đang chuẩn bị một kế hoạch lâu dài vững chắc. Nhìn lại lịch sử chiến tranh của nước Mỹ trên thế giới, ta thấy HK rất điêu luyện về chiến lược “đi sau mà về trước”.  
Trong thời kỳ Đệ I Thế Chiến (1914-1918), khi chiến tranh đã qua ¾ đoạn đường chiến binh, tháng 6/2017 Mỹ nhảy vào cuộc chiến. Rốt cuộc, Mỹ nhận thành quả nước thắng cuộc. Thời Đệ II thế chiến (1939-1945) cũng vậy, hai năm đầu Mỹ tuyên bố đứng trung lập, đến năm 1941 Mỹ vào cuộc, cuối cùng Mỹ nắm chủ động thắng cuộc.  Cuộc Chiến Tranh Lạnh (Cold War) tuy cuối cùng chiến thắng Cộng Sản nhưng không vinh dự như hai đại chiến trước vì hội chứng chiến tranh Việt Nam. Với kinh nghiệm trong ba đại chiến đó, Mỹ đã chuẩn bị rất kỹ lưỡng để bước lên vũ đài Siêu Cường Biển và duy trì thế siêu cường của mình về lâu dài sau Chiến Tranh Lạnh.
Qua ba cuộc đại chiến, hễ Mỹ dùng chiến lược “đi sau mà về trước” thì đạt những chiến thắng  lừng lẫy, uy tín ngút trời, nâng vị thế nước Mỹ thành quán quân trên chính trường quốc tế.  Từ trước tới nay, Mỹ chuẩn bị làm siêu cường rất chu đáo, không khoe khoan, bồng bột, háo thắng… Mỹ đã chuẩn bị 4 phương tiện làm Siêu Cường Biển như sau:
Thứ nhất, về Tàu Ngầm (Submarine), chiếc tàu ngầm đầu tiên do Nga sáng chế bởi Yefim Nikonov và đưa vào phục vụ chiến tranh từ năm 1720.  Nửa thế kỷ sau, năm 1775 Mỹ nghiên cứu tàu ngầm “Turtle”  một người lái (2). Khi chiến tranh Nhật-Mỹ tại Trân Châu Cảng (1941) thì Tàu Ngầm Mỹ tham chiến trở thành mũi nhọn trọng yếu đánh đắm hải quân Nhật. Từ đó đến nay, Mỹ không ngừng nâng cao kỹ thuật tàu ngầm về mọi mặt, hiện nay Mỹ có đội tàu ngầm vô địch về số lượng, cũng như chất lượng và khả năng chiến đấu vô song. Tàu ngầm hải quân Mỹ chạy bằng năng lượng nguyên tử, trang bị hoả tiễn tự hành tối tân Tomahawk (3) và trang bị cả hỏa tiễn mang đầu đạn nguyên tử. 
Thứ hai, về Hàng Không Mẫu Hạm (Aircraft Carier), chiếc đầu tiên do Nhật hạ thuỷ là HKMH Hosho vào năm 1922; Hải quân Anh có chiếc HKMH HMS Hermes vào năm 1924 [4]. Ba năm sau, vào tháng 9, 2017 Hải quân Mỹ mới có chiếc HKMH thuộc Lexington-class đưa vào hải quân. Giờ đây khi nói đến HKMH của Mỹ thì thế giới phải kinh ngạc, với 5 hạm đội (3,4,5,6,7) tung hoành trên khắp năm châu bốn biển. Hải quân các quốc gia trên thế giới tổng cộng có 20 chiếc HKMH thì Mỹ chiếm 11 chiếc (55%), và mỗi HKMH của Mỹ chạy bằng năng lượng nguyên tử và trang bị vũ khí tối tân gấp bội lần HKMH của các nước khác [5]. 

Thứ ba, về Không Quân, trong thời kỳ đệ I thế Chiến năm 1914, không quân Đức dùng oanh tạc cơ Zipperlins (Airship)  dội bom các mục tiêu khắp châu Âu [6], thì không quân Mỹ chưa thành hình. Năm 1917, Mỹ mới có một đội phi cơ nhỏ hoạt động trong toán American Expeditionary Force (AEF). Thế mà 24 năm sau, 1941 khi Mỹ tham gia Đệ II thế Chiến, oanh tạc cơ của Mỹ bay đen vùng trời và dội bom khắp trên nước Đức. Không những tại châu Âu, mà ở châu Á máy bay B-29 đã có khả năng dội hai trái bom nguyên tử trên đất Nhật kết thúc Đệ II thế chiến. Ngày nay, nói đến không quân Mỹ, những chiến đấu cơ F-16, F-18, F-22 và F-35 đang làm chủ vùng trời thế giới, bên cạnh những máy bay ném bom chiến lược B-52, B1 khổng lồ xuất phát từ từ các phi trường nội địa nước Mỹ có thể bay đến dội bom bất cứ nơi nào trên thế giới rồi trở về với sự tiếp tế nhiên liệu trên không…

Và thứ tư, về bộ binh, binh chủng Thuỷ Quân lục Chiến lừng danh qua bao cuộc đại chiến thế giới, cùng với một lực lượng Bộ Binh hùng hậu được trang bị vũ khí cá nhân và xe thiết giáp tối tân,  những giàn hoả tiễn THAAD làm cho thế giới kinh ngạc… THAAD đặt ở đâu thì đối phương lên tiếng phản đối vì sự tối tân và hiệu năng chiến đấu vô song của nó.
Bốn phương tiện chủ động để làm siêu cường thì Mỹ đều “đi sau mà về trước”,  cộng thêm kinh tế luôn hàng đầu với tổng sản lượng (GDP) năm 2016 hơn 25% GDP toàn thế giới (10), nay Mỹ là Siêu Cường Biển vô địch, bỏ xa các nước châu Âu hằng thập niên, và đi trước TC một phần tư thế kỷ.  Trong những năm tháng tới, nước Mỹ lại càng bỏ xa các nước trên thế giới nhờ vào kỹ thuật tối tân và ngân sách quốc phòng khổng lồ.  Như vào tháng 9, 2017, Quốc Hội Mỹ đã chấp nhận ngân sách quốc phòng 700 tỷ USD (năm 2016 chỉ có $523.9 tỷ) chi dùng vào chương trình “từng bước nâng cấp quân đội Mỹ” [7] của TT Trump yêu cầu. Số ngân sách quốc phòng này vượt quá nửa tổng số ngân sách quốc phòng của các nước trên thế giới cộng lại. Với tiềm lực đó, nước Mỹ sẽ trở thành Siêu Cường Biển trong hằng thế kỷ tới khó ai sánh kịp.
Các Hạm Đội Hoa Kỳ (2,3,4,5,6 & 7) đang kiểm soát các vùng biển trên thế giới – Nay hạm đội 3 & 7 (Đông và Tây Thái Bình Dương) cùng dưới một  bộ chỉ huy 
4) Hoa Kỳ hành động ở Biển Đông như thế nào sau Chiến Tranh Lạnh (1992) ?
Không phải giờ này ông Trump cho “Nước Mỹ Trước Hết” (American First) mà từ xưa đến nay Mỹ luôn luôn theo chủ trương có lợi cho nước Mỹ trên hết. Thấy lợi là Mỹ nhảy vào dù hy sinh xương máu, không lợi thì Mỹ rút lui dù ai có kêu gào giúp đỡ cũng phớt lờ (don’t care).  Chẳng qua những đời Tổng Thống Mỹ trước đây xuất thân chính trị chuyên nghiệp nên họ khéo ăn nói che được bản chất nước Mỹ mà thôi.  
Tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương, tuỳ theo từng giai đoạn mà Mỹ hành động có lợi nhất cho nước Mỹ. Việc bỏ Cam Ranh năm 1975 nay trở lại đều nằm trong tính toán chiến lược của Mỹ.
a) Giai đoạn 1992-2009:
Từ năm 1992, Hải Quân Mỹ đã chủ trương làm chủ những eo biển chiến lược sinh tử trên Ấn Độ -Thái Bình Dương như đã đề cập ở trên, cùng thời kỳ ấy HK đã chuẩn bị liên kết vùng Đông Nam Á bằng cách ngấm ngầm ủng hộ Indonesia đẩy mạnh sinh hoạt của Hiệp Hội Các Nước Đông Nam Á  gọi tắt là ASIAN [9].  
Mặc dù vậy, trong thập niên năm 1990,  nhận thấy TC đang đối phó với đói nghèo, còn loay hoay trong thềm lục địa, chưa có khả năng đặt chân ra Biển. Các nước vùng châu Á-Thái Bình Dương đang ngập lặn trong chiến tranh giữa các nước Cộng Sản “anh em” tranh dành lý thuyết Mác-Lê lỗi thời (VN đánh Cambodia, TC đánh VN).  Nhìn chung, khu vực này như “mớ bòng bong”. Mỹ thấy không có lợi về thương mại, nhúng tay vào thêm rắc rối,  chi bằng âm thầm giữ những eo biển quan trọng trên Biển để bảo đảm tuyến hàng hải là đủ. Thậm chí quay mặt để các nước Đông Nam Á tự cấu xé lẫn nhau hầu rãnh tay khai thác túi vàng đen dầu lửa ở Trung Đông. Chính sách của Mỹ lúc đó là cố làm chủ những mỏ dầu to lớn đại ở vùng Vịnh và tập trung  phát triển nền kinh tế  kỹ thuật điện tử “hight tech”.  Từ  đó những máy vi tính ra đời bằng bộ óc thông minh của con chíp điện tử microprocessor,  kỹ nghệ “dot com”,  hệ thống internet toàn cầ đưa nước Mỹ bước vào kỷ nguyên kỹ nghệ điện tử làm thay đổi vận hành thế giới, nước Mỹ ở vào thời kỳ kinh tế cực thịnh và nâng cao uy thế trên thế giới.
Dưới thời TT Bush vẫn thấy vùng Châu Á-Thái Bình Dương chưa phát triển, còn ở mức “xoá đói giảm nghèo” không phải là lúc khai thác quyền lợi, cũng như chưa có những đe doạ nguy hiểm cho an ninh nước Mỹ, nên TT Bush lơ là và vắng bóng tham gia các hội nghị quan trọng của khối ASIAN. Chỉ duy trì ngoại giao cần thiết, đứng quan sát tình hình thời cuộc.  Hơn thế nữa, đang đối đầu với chiến tranh chống khủng bố, phải cung cấp tài nguyên và nhân lực cho những cuộc chiến chống khủng ngoài nước và tăng cường an ninh nội bộ…
b) Giai đoạn 2009 – 2016:
Năm 2009, là năm TT Barack Obama mới bước vào Toà Bạch Ốc phải đối đầu với trăm ngàn ngổn ngang của TT Bush để lại. Nước Mỹ trong cơn khủng hoảng kinh tế trầm trọng, đang lâm vào cuộc chiến chống khủng bố ở hai chiến trường Iraq và Afghanistan còn mịt mù khói lửa, quân khủng bố Hồi Giáo vẫn tiếp tục khiêu khích trên thế giới tự do… Thừa nước đục thả câu, TC đệ trình lên Liên Hiệp Quốc bản đồ tự vẽ  “lưỡi bò 9 đoạn”  đòi làm chủ 90% diện tích Biển Đông vào giữa năm 2009. Báo hiệu quyền lợi của Mỹ ở Biển Đông và vùng Đông Nam Á bị đe doạ!
Lập tức, TT  Obama liền tuyên bố “Xoay Trục Châu Á” để đáp ứng kịp thời với chiến lược Siêu Cường Biển từng vạch ra sau thời hậu Cộng Sản.
Tháng 7/2010 tại Hội Nghị Diễn Đàn Khu Vực khối ASEAN (ARF) ở Hà Nội, cựu ngoại trưởng Hilary Clinton tuyên bố  “Biển Đông cũng là quyền lợi cốt lõi của Mỹ”,  khởi nguồn chiến lược ngoại giao đối phó với một TC đang hung hăng nổi lên. Lời tuyên bố của bà Clinton làm cho Bộ Trưởng ngoại giao TC Dương Khiết Trì nổi giận rời khỏi phòng họp. Khi trở lại, họ Dương tuyên bố một câu thô lỗ chưa từng có trong ngành ngoại giao “Trung Quốc là nước lớn, các nước khác là nước nhỏ, và đó là thực tế”.  Không lẽ ỷ nước lớn đi cướp các nước nhỏ hay sao, đó là hành động của bọn thảo khấu !
Qua những sự kiện cho ta thấy rằng Mỹ có chiến lược vạch sẵn của vị thế siêu cường. Tuỳ theo tình hình mà Mỹ biết lúc nào cần đặt ưu tiên hành động để đem quyền lợi cho mình.  
Dưới thời TT Barack Obama thấy âm mưu TC lộ ra rõ ràng, nhất là cuối năm 2014 trở đi, TC bắt đầu có hành động xâm lăng trắng trợn, hiếp đáp các nước yếu trong vùng, đưa giàn khoan HD981 vào vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam, xâm lấn vùng lãnh hải Philippines, đơn phương ra lệnh cấm đánh cá trên Biển Đông, hăm doạ các tàu chiến nước ngoài đến vùng biển TC cho là chủ quyền v.v.. Đặc biệt là TC nhanh chóng xây các đảo tân tạo trên vùng biển tranh chấp và ngày đêm lén lút xây căn cứ quân sự, bất chấp luật lệ quốc tế, xem thường “cảnh cáo” của Mỹ. Thậm chí còn thử “gan” của TT Obama bằng cách không cho thang máy ra Airforce One để Obama phải  xuống bằng “cửa hậu”.  
Sự phản ứng của Mỹ trong thời gian này tăng lên tùy mức độ. Phần chính chủ yếu về ngoại giao và vận động quốc tế gây sức ép đối với TC. Ban đầu Mỹ tuyên bố trung lập không đứng về phía nào của các nước tranh chấp Biển Đông, nhưng trên thực tế những đòi hỏi của Mỹ rất có lợi cho các nước nhỏ đòi chủ quyền trên Biển Đông. Cổ động việc “đàm phán đa phương”, trong khi TC chỉ muốn “đàm phán song phương” để dễ dàng ăn hiếp các nước yếu.  Mỹ khuyến khích Philippines đưa TC ra toà phán xét PCA về xâm phạm Biển Đông để quốc tế hoá hành động xâm lăng phi pháp của TC, và đã chiến thắng. Tiếp theo là có những hành động quân sự như cho chiến hạm hải quân tuần tra vào gần 12 hải lý ở các đảo tân tạo của TC để thách thức chủ quyền. Quốc hội HK thường hối thúc hành pháp có hành động quyết liệt hơn ở Biển Đông. Và Các bộ trưởng ngoại giao và quốc phòng HK đã liên tục viếng thăm thân thiện với các đối tượng trong vùng Đông nam Á như Mã Lai, Singapore, Indonesia, Miến Điện, Việt Nam và nhất là Philippines để tạo đồng minh. 
Nhất là năm 2016, Bộ Trưởng Quốc Phòng Ash Carter (dưới thời TT Obama) thường đi về vùng Châu Á Thái Bình Dương, ông đã tuyên bố tình hình Biển Đông bước sang giai đoạn 3: “Trong giai đoạn ba, quân đội Mỹ giữ vững và phát triển kết quả từ giai đoạn hai. Sẽ có thêm nhiều vũ khí hiện đại được đưa tới châu Á, bao gồm chiến đấu cơ F-35, máy bay trinh sát P-8 và tàu ngầm nguyên tử, máy bay ném bom chiến lược hiện đại cùng các kỹ thuật công nghệ tối tân về vũ trụ và hệ thống Internet. Bộ trưởng Carter tiết lộ quân đội Mỹ còn nắm trong tay một số vũ khí mới mà mọi người không thể ngờ tới sẽ được khai triển sử dụng ở châu Á-Thái Bình Dương.”
Tuy vậy, TC không chịu lùi bước, họ dùng đủ mánh khoé và hành động tiểu xảo để tiến hành xâm lăng, dùng du kích biển, dùng lực lượng bán quân sự v.v.. sử dụng chiến thuật “mềm nắn, rắn buông” để tiến hành làm chủ Biển Đông, họ đã xây “Vạn  Lý Trường Thành” trên biển để làm đầu cầu xuất phát cho quốc sách “Một Vành Đai, Một Con Đường” mà Tập Cận Bình chính thức tuyên bố trong hội nghị APEC tại Đà Nẵng là “không thể đảo ngược”.
c) Giai đoạn 2017….
Nhận thấy những biện pháp của TT Barack Obama chưa có khả năng đẩy lùi bước xâm lược của Tàu Cộng trên Biển Đông, TT Trump tiếp tục tiến hành chiến lược “Xoay Trục” của TT Obama bằng những bước mạnh hơn. Đến lúc TT Trump phải thực hiện chiến lược Siêu Cường Biển của mình để giữ Biển Đông. Ông đã đề ra chiến lược Ấn Độ-Thái Bình Dương Tự Do và Rộng Mở mà bốn nước trụ cột là Mỹ-Ấn-Nhật-Úc đang thành hình một vòng đai bao vây kinh tế lẫn quân sự TC. Ông Trump đang tìm cách lôi cuốn những nước có địa chính trị liên hệ vào quỹ đạo của Mỹ, điểm nhắm là Việt Nam. Điều này chúng ta đã thấy khá rõ trong chuyến viếng thăm Việt Nam của TT Trump vừa rồi. Cách tiếp cận của TT Trump thấy mạnh hơn, cụ thể hơn và khác hơn so với các đời TT tiền nhiệm. Dĩ nhiên ông sẽ không lập lại cách thức mà các đời TT trước đã thực hiện không có kết quả.
Các chiến lược gia Tòa Bạch Ốc chắc chắn thấu triệt rằng: Nếu Mỹ rời khỏi Biển Đông thì sẽ mất những lợi điểm to lớn như:
– Mất Biển Đông là mất cửa ngõ đường biển và đường hàng không giao lưu với các nước quốc châu Á – Thái Bình Dương đối với quốc tế.– Mất Biển Đông xem như chặt dứt móc xích  trên chuỗi dây xích Ấn Độ-Thái Bình Dương, tuyến đường lưu thông trên biển và trên không bị kiểm soát bởi Trung Cộng.– Mất Biển Đông thì HK đã đánh mất vị thế Siêu Cường Biển. Tiếng nói của HK trên chính trường quốc tế không còn được tôn trọng. Thế thế giới có thể trở nên hỗn loạn.– Mất Biển Đông, kéo theo các nước Đông Nam Á không còn niềm tin ở Mỹ, sẽ bổ về quỹ đạo TC, Mỹ xem như mất nguồn khai thác quyền lợi lớn nhất trong thế kỷ 21.  Kinh tế hàng đầu của Mỹ bị thách thức, địa vị Siêu Cường Biển bị hạ bệ. –  Mất Biển Đông, Mỹ sẽ bị bế tắc giao thương với vùng kinh tế châu Á có GDP chiếm hơn 30% GDP toàn cầu (10), đây là vùng có mức độ kinh tế tăng nhanh nhất thế giới hiện nay với thị trường nhân công rẻ là hấp lực cho giới đầu tư nước Mỹ.
Một HK đã chuẩn bị thế Siêu Cường Biển cả hằng trăm năm, càng ngày càng mạnh, càng hiện đại đang bỏ xa các nước trên thế giới. Ngày nay, Hoa Kỳ có uy thế tuyệt đối về mọi mặt chính trị, kinh tế, quân sự, tin học xứng với vị thế một Siêu Cường Biển vô địch, thử hỏi rằng HK có thể rời bỏ vị trí chiến lược trọng yếu Biển Đông để rồi nhận lãnh một hậu quả vô tiền khoáng hậu cho tương lai của nước Mỹ hay không? Chắc chắn không.  
Lời kết:
TT Hoa Kỳ Donald Trump và CT TC Tập Cận Bình đọc diễn văn về chiến lược của mình tại Hội Nghị APEC Đà Nẵng 11/2017
Hội Nghị APEC năm 2017 tại Đà Nẵng vừa rồi, qua hai bài diễn văn của TT Mỹ Donald Trump và và Chủ Tịch TC Tập Cận Bình đã mở ra một thế trận chiến lược đối đầu  “Ấn Độ-Thái Bình Dương Tự Do và Rộng Mở” và  “Một Vành Đai, Một Con Đường” mà Biển Đông là tâm điểm của sự tương khắc đó.  
Cuộc đối đầu này không đơn thuần về quân sự, nó là một trận chiến tổng hợp về kinh tế, quân sự, ngoại giao, tin học…
HK đã ba lần chiến thắng các trận đại chiến trên thế giới trước đây. Lần này Mỹ bước vào cuộc chiến mới với ưu thế tuyệt đối của mình, không có lý do gì mà Mỹ thua trận ở Biển Đông. Trừ khi Tập Cận Bình từ bỏ đấu óc bá quyền Đại Hán để chung sống hoà bình với nhân loại. Nếu không Trung Hoa sẽ gánh một hậu quả khôn lường cho “giấc mơ Trung Hoa” của họ..
Trọng tâm của cuộc đối đầu Trung-Mỹ xẩy ra trên vùng biển Việt Nam, dân tộc ta một lần nữa không thể tránh được cảnh tương tranh này. Đối với TC luôn luôn có dã tâm chiếm nước ta để làm một tỉnh của Tàu như Tân Cương và Tây Tạng, nhà cầm quyền CSVN đang bị TC mua chuộc và  khống chế như một kẻ thừa sai, sự xâm lăng của Tàu Cộng đang tràn ngập nước ta đến mức thậm chí nguy. Nếu không một thế lực nào đủ sức ngăn chận dã tâm Đại Hán xuống Biển Đông và Đông Nam Á thì việc mất nước Việt Nam về tay TC khó tránh khỏi. Hiện nay chỉ có Mỹ mới có đủ khả năng ngăn chận TC.
Khi Hoa Kỳ coi trọng Biển Đông như một vị thế chiến lược không thể mất, thì chắc chắn họ sẽ trở lại vùng châu Á-Thái Bình Dương mà nước Việt vẫn là cứ điểm quan trọng. Dân tộc Việt cần khôn khéo vận dụng cơ hội này để đuổi TC ra khỏi nước ta. Tách rời sự cấu kết (răng môi) giữ tay sai CSVN và quan thầy TC là bảo vệ tổ quốc và là chặt đứt điểm tựa mà CSVN thường sử dụng để tiếp tục bám quyền cai trị. Được như vậy, công cuộc giải thể chế độ độc tài toàn trị  CSVN thuận lợi gấp bội phần.
Hoa Kỳ, ngày 17 tháng 11 năm 2017
Lê Thành Nhân (lethanhnhan@vietquoc.org)
==========================================
(1) Keegan, JohnThe American Civil War Knopf, 2009, 272.