ĐỌC ĐỂ THẤY NGƯỜI BẠN
ĐỒNG MINH (HOA KỲ) NÉM ĐÁ DẤU TAY NHƯ THẾ NÀO?- Bùi Anh-Trinh
Sau 30-4-1975 Mỹ mở chiến dịch đổ tội làm
mất nước cho Tổng Thống Thiệu để cho người ta không oán hận Mỹ đã bỏ rơi VNCH.
Giờ đây đã 40 năm trôi qua, nếu người Mỹ không lên tiếng giải oan cho Tổng
Thống Nguyễn Văn Thiệu, thì cũng nên trả lại sự thật cho lịch sử.
Tác gỉa Bùi Anh Trinh
29-9-2015
29-9-2015
* Ngày 29-9 năm
nay đã là ngày giỗ thứ 14 của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Cho tới trước khi
chết Ông vẫn cúi đầu nhận chịu trách nhiệm đã làm cho mất nước, một lỗi lầm quá
to lớn mà cá nhân một người không thể nào gánh vác. Nếu có một người nào đó
đứng ra nhận chịu thì quả là vô lý, thế nhưng Ông Nguyễn Văn Thiệu đã làm.
Ⅰ – PHẢI CHĂNG MỸ BỎ
RƠI?
Kể từ ngày lập
quốc, nước Mỹ thực sự sụp đổ vào năm 1975 với 3 triệu cựu chiến binh tại chiến
trường Việt Nam, 58 ngàn người đã chết, và 3.000 quân nhân còn mất tích. Xã hội
Mỹ phân hóa trầm trọng với tranh cãi đổ lỗi cho nhau.
Chính vì vậy mà những người quân nhân VNCH không bao giờ động chạm tới nỗi đau của người bạn chiến đấu Mỹ, họ đã làm hết sức của họ rồi, họ đã phải chết tới 58.000 người và đã hao tốn 300 tỉ USD, lại còn phải nuôi 3 triệu cựu chiến binh Mỹ mà người nào cuộc đời cũng tan nát do bị khủng hoảng, bị thất bại vì không thể trở lại trường để làm lại cuộc đời.
Chính vì vậy mà những người quân nhân VNCH không bao giờ động chạm tới nỗi đau của người bạn chiến đấu Mỹ, họ đã làm hết sức của họ rồi, họ đã phải chết tới 58.000 người và đã hao tốn 300 tỉ USD, lại còn phải nuôi 3 triệu cựu chiến binh Mỹ mà người nào cuộc đời cũng tan nát do bị khủng hoảng, bị thất bại vì không thể trở lại trường để làm lại cuộc đời.
Hai chữ “Bỏ Rơi”
là do BBC và RFI dùng để xoa dịu sự oán hận của người Việt sau khi Mỹ cắt ông
tiếp huyết cho VNCH. “Bỏ Rơi Đồng Minh” khác với “Phản Bội Đồng Minh”. Bỏ Rơi
có nghĩa là tôi thích thì tôi giúp, khi thấy mệt mõi quá thì tôi không giúp
nữa. Còn Phản Bội là phỉnh gạt, lừa đảo. Cho nên người Mỹ muốn nhận là họ Bỏ
Rơi VNCH còn hơn là nhận Phản Bội VNCH.
Ⅱ – Frank Snepp, THÁNG 3 NĂM 1973.
Năm 1968 anh sinh
viên Frank Snepp quyết định làm đơn xin đầu quân vào CIA để tránh khỏi phải đi
lính và chiến đấu tại VN. Năm 1969 Snepp bắt đầu làm viêc tại chi nhánh CIA tại
Sài Gòn trong tư thế một nhân viên mới vào nghề. Năm 1971 ông trở về Trung tâm
CIA tại Mỹ với nhiệm vụ phân tích những tin tức thu thập từ báo chí của Bắc
Việt.
Đến năm 1972 ông
bị đày đi VN vì tội đã báo trực tiếp cho Tòa Bạch Ốc một thông tin ông đọc được
trên báo của Hà Nội mà không qua các xếp lớn của CIA. Nhiệm vụ lần thứ hai của
Frank Snepp tại Việt Nam là đọc báo và nghe đài phát thanh của CSVN và VNCH để
trình cho Polgar, trưởng CIA tại Sài Gòn, những tin nào mà ông ta thấy đáng
quan tâm.
Sau biến cố 1975
Frank Snepp quyết định viết thành sách về những gì ông chứng kiến trong vai trò
một nhân viên CIA làm việc tại VN trong giai đoạn Hoa Kỳ cuốn cờ ra khỏi Việt
Nam. Nhờ đó ông nhanh chóng trở thành nhân chứng sống duy nhất dám tiết lộ
những bí mật mà một nhân viên CIA không được phép tiết lộ.
CIA đã đưa ông ra
tòa vì ông đã hành động trái với lời tuyên thệ khi ông bước chân vào tổ chức
CIA. Tòa án đã phán quyết Frank Snepp không bị tội tiết lộ bí mật nghiệp vụ
nhưng cũng quyết định cho thu hồi quyển sách “Decent Interval” của Frank Snepp.
Tuy nhiên phán quyết này chỉ có hiệu lực hình thức bởi vì cả thế giới đều đã đọc
Decent Interval.
Theo Frank Snepp
thì mọi chuyện đều bắt đầu từ khi ký kết Hiệp Định Paris. Rồi 3 tháng sau khi
ký kết Hiệp Định, Tổng Thống Nixon cử Martin làm đại sứ Mỹ tại VN thay Bunker.
Frank Snepp mô tả vai trò của Đại sứ Martin: “Mỹ buộc phải bỏ khỏi Việt Nam
trong tư thế đường hoàng, và muốn tạo được ấn tượng như vậy thì cần phải có một
chuyên gia về ảo thuật và kịch nghệ mà Martin thuộc vào hạng sư phụ. (Trang 75,
nguyên văn: “The United States was obliged to crawl out of Vietnam standing up,
and to foster that illusion required the kind of conjuring and stagecraft at
which Martin so adept”). Như vậy màn kịch bỏ rơi Việt Nam đã được lên giàn từ
tháng 4 năm 1973.
Ⅲ – Nixon THẤT HỨA VỚI Liên Xô, THÁNG 8 NĂM
1974.
Năm 1974 giữa năm,
Tổng Thống Mỹ Nixon đệ trình Quốc Hội Mỹ bản dự thảo hiệp ước giao thương giữa
Mỹ và Liên Xô. Đến lúc này Quốc Hội Mỹ mới biết rằng đây là cái giá mà Nixon đã
trả cho việc Liên Xô ngưng cung cấp vũ khí cho Hà Nội và ép Hà Nội phải ký hiệp
ước ngưng bắn 1973. Dĩ nhiên khi đưa ra trước Quốc hội, Nixon tin rằng sẽ được
thông qua dễ dàng vì lợi ích chung của cả hai nước, nhất là từng bước giải
quyết chiến tranh lạnh là điều mà dân chúng Hoa Kỳ mong chờ.
Tuy nhiên ông đã
tính lầm, Quốc Hội Mỹ đoán rằng còn nhiều cái giá khác nữa giữa Nixon và Liên
Xô, Trung Quốc, Hà Nội vào năm 1972. Vì vậy Quốc Hội bác bỏ thẳng thừng hiệp
ước thương mại Xô – Mỹ để buộc Nixon phải lòi ra những thỏa thuận khác. Dĩ
nhiên là Nixon không đưa ra, ông dùng đặc quyền hành pháp để từ chối.
Vì vậy Quốc Hội có
một cách khác để moi ra những gì mà Nixon đã cam kết với LX, TQ và Hà Nội vào
năm 1972; đó là cách lợi dụng vụ Watergate để triệu tập một Ủy ban điều tra đặc
biệt về sai phạm của Nixon trong vụ nghe lén, nhờ đó công tố viên của ủy ban
điều tra có quyền bắt Nixon phải đưa ra tất cả những cam kết ngầm với Bắc Kinh,
Mạc Tư Khoa và cả Hà Nội.
Nixon chỉ còn có
cách từ chức để né tránh Ủy ban điều tra bởi vì ông và Kissinger đã có những
thỏa thuận mật với đối phương mà không xin phép Quốc Hội. Một khi ông từ chức
thì những cam kết của ông trở thành vô hiệu lực. Quốc Hội sẽ không còn cớ để
truy xét.
Sau khi Nixon từ
chức thì Quốc Hội Hoa Kỳ cho thông qua đạo luật cấm HK buôn bán với các nước
Cộng Sản vào cuối năm 1974 (Đạo luật Jackson-Vanik). Sự trở mặt của Quốc Hội Mỹ
đã khiến Liên Xô tức giận bởi vì những cam kết của Nixon khi ông ta viếng thăm
Liên xô vào năm 1972 đã không được thi hành. Vì vậy, cuối năm 1974, Đại Tướng
Kulikov của Liên Xô đến Hà Nội để xúi Hà Nội đưa quân đánh chiếm Miền Nam, Liên
Xô sẽ cung cấp vũ khí và chiến phí.
Ⅳ – HÀ NỘI CAY ĐẮNG.
Theo như 7 mục, 23
điều khoản của Hiệp Định Paris thì Hà Nội ngưng bắn vô điều kiện, trao trả cho
Mỹ 591 tù binh Mỹ vô điều kiện, trao trả tù binh VNCH để đổi lại VNCH trao trả
28 ngàn tù binh Bắc Việt. Trong khi đó Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu không phải
từ chức, 38 ngàn tù chính trị của mặt trận GPMN vẫn tiếp tục bị giam giữ.
Đặc biệt là “ngưng
chiến da beo”, nghĩa là quân đội CSVN vẫn ở trên rừng và quân đội VNCH kiểm
soát thành thị và thôn quê Nam Việt Nam. Biên giới hai miền Nam Bắc vẫn được
tôn trọng theo như Hiệp Định Geneve 1954.
Nhìn bề mặt của
Hiệp Định Paris quá vô lý cho nên giới quan sát quốc tế thừa biết bên trong
phải có một mật ước riêng. Quả nhiên sau này vào năm 1977 Tổng Thống Jimmy
Cater của Mỹ xác nhận có một mật ước riêng đằng sau Hiệp Định Paris được Nixon
ký với Hà Nội 4 ngày sau khi ký kết Hiệp Định Paris 1973. Vào tháng 10 năm 1988
Hà Nội cho công bố toàn văn bản mật ước Nixon & Phạm Văn Đồng.
Theo đó thì Nixon
hứa sẽ viện trợ tái thiết cho Bắc Việt 3,25 tỉ USD và viện trợ phát triển kinh
tế cho Hà Nội 1,5 tỉ USD. Trong vòng 30 ngày sau khi người tù binh HK cuối cùng
rời khỏi VN thì hai bên sẽ thiết lập xong hệ thống viện trợ tái thiết, và trong
vòng 60 ngày sau đó thì lập xong hệ thống viện trợ phát triển kinh tế.
Bản mật ước do
đích thân Kissinger mang tới Hà Nội cho Phạm Văn Đồng ký nhận. Từ đó Lê Duẩn
ngày đêm trông chờ món tiền của Kissinger và đến cuối năm 1974, Liên Xô cử
tướng Kulikov sang Hà Nội xúi Lê Duẩn đánh chiếm Miền Nam thì có nghĩa là Hiệp
Định Paris coi như tờ giấy lộn. Rốt cuộc Hà Nội biếu không 591 tù binh Hoa Kỳ
mà chẳng nhận được đồng nào, suốt 10 năm chiến đấu gian khổ, hằng triệu người
chết, hằng chục tỉ đô la nợ chiến phí… đến nay chỉ còn là con số không (sic).
Tướng Kulikov xúi
Hà Nội phát động chiến tranh trở lại nhưng Lê Duẩn và tập đoàn lãnh đạo CSVN
thực sự trắng mắt. Dân chúng Miền Bắc đã kiệt sức, trong 5 năm nhà nước đã đóng
cửa tất cả 18 trường đại học và cao đẳng, bòn vét nhân lực đến độ phải gọi lính
ở tuổi 16, tại Miền Bắc chỉ còn một trời đàn bà góa… thì lấy đâu để gây chiến
tranh trở lại.
*(Theo hồi ký của
tướng CSVN Hoàng Văn Thái thì cho tới năm 1974 Hà Nội đã động viên đến 16% dân
số, không thể nào động viên thêm được nữa. Trong khi Miền Nam là 5,88%)
Ⅴ – HẾT ĐẠN VÀ HẾT NHIÊN LIỆU.
Bắt đầu từ năm
1975 Đại Tướng Cao Văn Viên viết tường trình cho Ngũ Giác Đài về những ngày
cuối cùng của chiến tranh Việt Nam nhưng đến năm 1983 mới được in thành sách
với tựa đề “The Final Collapse” và hai mươi năm sau, 2003 The Final Collapse
được nhà nghiên cứu sử Nguyễn Kỳ Phong dịch ra tiếng Việt với tựa đề “Những
ngày cuối của Việt Nam Cộng Hòa”. Trong sách có kèm theo những chú giải mới
nhất của Đại Tướng Cao Văn Viên. “Một sự thực không thể chối cãi là quân đội
VNCH sẽ hết đạn và nhiên liệu vào tháng 6 năm 1975…” (Tài liệu của Ngũ Giác
Đài: Cao Văn Viên, The Final Collapse, bản dịch của Nguyễn Kỳ Phong trang 136).
Năm 1974 tháng
Giêng, theo tài liệu của CIA: “Từ cuối tháng 12-1973 đến đầu tháng Giêng 1974
Tướng John Murray và ban tham mưu của ông đã làm việc ngày đêm để cố gắng tìm
đáp số cho bài toán viện trợ quân sự. Nhưng mỗi lần họ tìm ra một giải pháp để
giải quyết vấn đề thì lại phát sinh một vấn đề khác mà kết quả cũng chỉ đưa tới
bí lối” (Frank Snepp, Decent Interval, trang 95).
Tướng John Murray
là Tư Lệnh cuối cùng của quân đội Hoa Kỳ tại Nam Việt Nam. Ông đến Việt Nam sau
Hiệp Định Paris 1973, sang đầu năm 1974 ông và Bộ Tham Mưu Hoa Kỳ tại Việt Nam
phải tính toán sổ sách về viện trợ quân sự cho Nam Việt Nam trong nửa cuối 1974
và đầu năm 1975. Tuy nhiên Ngũ Giác Đài đã cho ông biết trước là có thể dưới
700 triệu đô la nhưng theo các chuyên viên tham mưu của John Murray thì 700
triệu chỉ đủ giữ được Vùng 4.
Năm 1974 cũng theo Frank Snepp, ngày 16-8 John Murray họp buổi họp chót với Đại Tướng Cao Văn Viên (Tổng Tham Mưu Trưởng), Tướng Đồng Văn Khuyên (Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận) và một số tướng lãnh của Bộ TTM. John Murray khuyên Tướng Viên nên liệu cơm gắp mắm, gấp rút lên kế hoạch sẵn sàng bỏ Vùng 1, Vùng 2 và cả Vùng 3 để về cố thủ Vùng 4. Tuy nhiên “Tướng Viên lẫn Tướng Khuyên đều nói rằng lên kế hoạch về quân sự thì được, nhưng về mặt chính trị thì không thể nào thi hành nổi”. Sau buổi họp này thì John Murray giải ngũ, trở về Hoa Kỳ.
Năm 1974 cũng theo Frank Snepp, ngày 16-8 John Murray họp buổi họp chót với Đại Tướng Cao Văn Viên (Tổng Tham Mưu Trưởng), Tướng Đồng Văn Khuyên (Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận) và một số tướng lãnh của Bộ TTM. John Murray khuyên Tướng Viên nên liệu cơm gắp mắm, gấp rút lên kế hoạch sẵn sàng bỏ Vùng 1, Vùng 2 và cả Vùng 3 để về cố thủ Vùng 4. Tuy nhiên “Tướng Viên lẫn Tướng Khuyên đều nói rằng lên kế hoạch về quân sự thì được, nhưng về mặt chính trị thì không thể nào thi hành nổi”. Sau buổi họp này thì John Murray giải ngũ, trở về Hoa Kỳ.
Năm 1974 tháng 5,
theo Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng (Bộ Trưởng Bộ Kế Hoạch của VNCH) thì ông đã tình cờ
trông thấy bản kế hoạch “Cắt Đất Theo Lượng Viện Trợ” của Murray nằm trên bàn
của Tổng Thống Thiệu vào tháng 5 năm 1974, nghĩa là 2 tháng trước khi Nixon từ
chức. Như vậy Murray chính là tác giả của kế hoạch bỏ Vùng 1, Vùng 2 vào năm
1975, một kế hoạch mà cho tới 40 năm sau người ta vẫn cho là sáng kiến (tối
kiến) của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Sự thực Tổng Thống đã bị báo chí Mỹ cố
tình gieo tiếng oan mà lúc đó Ông không thể lên tiếng thanh minh.
Năm 1974, ngày
24-12: Theo hồi ký của Đại Tá Phạm Bá Hoa “Ngày 24-12-1974, lúc quân CSVN đang
tấn công Phước Long sang ngày thứ 10; một buổi tiệc mừng Giáng Sinh được Tướng
Đồng Văn Khuyên, Tham Mưu Trưởng Bộ Tổng Tham Mưu, tổ chức trên lầu của Câu lạc
Bộ trong BTTM”. Khách tham dự gồm có Tướng Smith (Chỉ Huy Trưởng cơ quan quân
sự HK tại VN; Tướng Quân Y Phạm Hà Thanh; Tướng Công Binh Nguyễn Văn Chức; Đại
Tá Phạm Kỳ Loan (Tổng Cục Phó Tiếp Vận); Đại Tá Phạm Bá Hoa (Tham Mưu Trưởng
Tổng Cục Tiếp Vận); Đại Tá Pelosky (Phụ Tá của Tướng Smith); Trung Tá Nguyễn Đình
Bá (Chánh Văn Phòng của Tướng Khuyên).
Thiếu Tướng Smith
tiết lộ rằng: “Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ có kế hoạch với ngân khoản dự trù hơn 300
triệu đollar để di tản sang Hoa Kỳ khoảng 40 ngàn sĩ quan và gia đình, nhưng
thời gian thì chưa rõ” (Phạm Bá Hoa, Đôi Dòng Ghi Nhớ, Bản in lần 4, trang
264). Khi sách của Phạm Bá Hoa phát hành thì tất cả các nhân vật trong bữa tiệc
đều còn sống mạnh khỏe nhưng không ai phản đối, kể cả Tướng Smith; chứng tỏ
chuyện này hoàn toàn có thật.
Như vậy là kịch
bản bỏ rơi Miền Nam đã được lên giàn trước khi mất Phước Long chứ không phải là
sau khi mất Ban Mê Thuột. Người ta đã tính toán sẵn kế hoạch để cho VNCH sụp đổ
trước tháng 6 năm 1975, kể cả ước tính trước ngân sách chi dụng cho kế hoạch.
Năm 1975, ngày
7-1: Phản ứng của Mỹ sau khi mất Phước Long là: “Nhà Trắng nói rằng: Tổng Thống
Ford không có ý vi phạm những điều cấm chỉ (của Quốc Hội) về việc sử dụng lực
lượng quân sự Hoa Kỳ tại Việt Nam” (Hồi ký của Tướng CSVN Hoàng Văn Thái, trang
161). Khi vừa nghe tin này Phạm Văn Đồng tuyên bố: “Cho kẹo quân Mỹ cũng không
dám trở lại VN”(trang 146).
Ngay sau khi nhận
được tin, Lê Duẩn chỉ thị cho Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng Hoàng Văn Thái lên
kế hoạch tiến chiếm miền Nam: “Một tháng sau chiến thắng Phước Long, ngày 5
tháng 2, anh Văn Tiến Dũng lên đường vào Tây Nguyên” (Hoàng Văn Thái, trang
172).
Ngày đó cơ quan
USIS của CIA tung tin quân VNCH thua tại Phước Long là do Tổng Thống Nguyễn Văn
Thiệu cố tình bỏ Phước Long để thử xem phản ứng của Mỹ. Sở dĩ CIA đổ cho Nguyễn
Văn Thiệu là để Quốc Hội Mỹ có cớ biểu quyết ngưng viện trợ quân sự cho VNCH.
Ⅵ – Và TÌNH HÌNH THỰC SỰ VÀO THÁNG 3 NĂM
1975:
-Tuần đầu của
tháng 3 năm 1975. Trong một cuộc họp đầu tuần của Bộ Ngoại Giao HK, Kissinger
đã giải thích hành động viện trợ “Lấy Có” cho Cam Bốt: “Chính Phủ Lon Nol đang
trên đà sụp đổ, đây là nguyên do chính khiến chúng ta phải tiếp tục viện trợ để
cho sau này không ai có thể trách chúng ta vô trách nhiệm”. (Frank Snepp,
Decent Interval, trang 175). *(Nguyên văn: “…he say, the Lon Nol Government was
on the brink of collapse, it was essential to keep open the aid pipeline so no
one could later blame the United States for the disaster”).
– Ngày 7-3-1975,
Kissinger chỉ thị cho các viên chức Ngoại Giao HK trước khi ông ta lên đường đi
Trung Đông: “Hãy làm mọi cách để Quốc Hội tiếp tục duy trì viện trợ (Lấy Có)
cho Cam Bốt và Việt Nam. Không phải để cứu vãn hai nước đó, mà vì không thể nào
cứu vãn được hai nước đó” (Frank Snepp, Decent Interval trang 176). *(Nguyên
Văn: Do every thing possible to ensure that Congress lived up our aid
commitments to Cambodia and Vietnam- not because the two countries were
necessarily salvageable, but precisely because they might not be).
Hai ngày sau khi
Kissinger nói câu này thì Văn Tiến Dũng ra lệnh tấn công Ban Mê Thuột.
Kissinger không
muốn thiên hạ nghĩ rằng Việt Nam sụp đổ do không còn viện trợ. Và với mức độ
viện trợ nhỏ giọt thì đến ngày 30-6-1975 quân đội VNCH sẽ không còn Gạo và
không còn Đạn (Tài Liệu The Final Collapse của Đại Tướng Cao Văn Viên). Vì thế
Kissinger mong cho Quân đội VNCH tự tan rã trước khi hết Gạo và Đạn trước tháng
Sáu năm 1975. Lúc đó thiên hạ sẽ nghĩ rằng Quân Đội Sài Gòn đã thua chạy trước
sức tiến công vũ bão của quân Hà Nội.
Ⅶ – THẾ BẮT BUỘC của Tổng Thống Nguyễn Văn
Thiệu.
Năm 1975 ngày 11-3,
một ngày sau khi mất Ban Mê Thuột. Theo Đại Tướng Cao Văn Viên “Ngày 11-3 Tổng
Thống Thiệu mời các Tướng Khiêm, Viên, Quang ăn sáng tại Dinh Độc Lập và sau đó
trình bày ý định muốn cắt bỏ bớt lãnh thổ cho vừa với mức viện trợ quân sự của
HK vào năm 1975”. Tướng Viên ghi lại cảm nghĩ của ông lúc đó: “Quyết định của
Tổng Thống Thiệu cho chúng tôi thấy đây là một quyết định ông đã suy xét thận
trọng. Hình như Tổng Thống Thiệu đã ngần ngại về quyết định đó, và bây giờ ông
chỉ thổ lộ cho ba người chúng tôi trong bữa ăn sáng…”
*“… Tổng Thống
Thiệu phác họa sơ: …Một vài phần đất quan trọng đang bị Cộng Sản chiếm, chúng
ta sẽ cố gắng lấy lại bằng mọi gía…Ban Mê Thuột quan trọng hơn hai tỉnh Kontum
và Pleiku nhập lại…” (Cao Văn Viên, The Final Collapse, bản dịch của Nguyễn Kỳ
Phong, trang 129-131).
“Ngay sau khi
Phước Long bị tấn công, Hoa Kỳ không có một phản ứng nào … . Một thực tế gần
như hiển nhiên là Hoa Kỳ không muốn cuộc chiến tiếp tục và biểu quyết viện trợ
để VNCH đánh tiếp là chuyện sẽ không xảy ra. Đối với Hoa Kỳ cuộc chiến Việt Nam
đã kết thúc” (trang 132).
Các đoạn trích dẫn
trên đây đã giải thích vì sao Tổng Thống Thiệu phải bỏ Vùng 1 cũng như Vùng 2.
Và vì sao Tướng Viên không nhiệt tình tham gia kế hoạch của Tướng Thiệu.
Cuối cùng, sau
30-4-1975 Mỹ mở chiến dịch đổ tội làm mất nước cho Tổng Thống Thiệu để cho
người ta không oán hận Mỹ đã bỏ rơi VNCH. Giờ đây đã 40 năm trôi qua, nếu người
Mỹ không lên tiếng giải oan cho Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, thì cũng nên trả
lại sự thật cho lịch sử.
Tác gỉa Bùi Anh
Trinh
29-9-2015
29-9-2015
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét