GÌN VÀNG GIỮ NGỌC CHO TIẾNG VIỆT TRUYỀN THỐNG
TẠI HẢI NGOẠI
THUYẾT TRÌNH CHỦ ĐỀ
CỦA GS ĐÀM TRUNG PHÁPTRONG LỄ KHAI GIẢNG KHÓA HUẤN LUYỆN VÀ TU NGHIỆP SƯ PHẠMCÁC TRUNG TÂM VIỆT
NGỮNAM CALIFORNIA
NGÀY 28-7-2017 TẠI
LITTLE SAIGON
Phảikhốnkhổgiãbiệtmiền Nam khibịcộngquânmiềnBắcxâmchiếmcuốitháng
4 năm 1975,
chúng
ta mangtheođượcgì? Củacải, danhvọng, bà
con thânthuộc, bạnbèthì không,
nhưngchúng ta mangtheođượcvănhóavàngônngữViệtNam truyềnthốngrahảingoạivớichúng
ta.Sau hơn 40 nămtỵ nạn tại hải ngoại,
chúng ta vẫn duy trì đượcvăn hóa và ngôn ngữđáng trân quý ấy. Các truyền thống
văn hóa Việt thể hiện qua các lễ lạc như Tết Nguyên Đán, Giỗ Quốc Tổ Hùng
Vương, Giỗ Hai Bà Trưng, Tết Trung Thu; các tập tục như quan, hôn, tang, tế,
tinh thần tôn sư trọng đạo vẫn được thiết thaduy trì trong các cộng đồng Việt hải
ngoại. Và tiếng Việt truyền thống –nơi lưu giữ cái linh hồn, cái tinh hoa, cái
bản sắc, cái tình tự dân tộc thắm thiết của chúng ta – vẫn còn nguyên vẹn!
Tiếng Việt chúng ta
mang theo là thứ tiếng Việt đẹp đẽ, thanh lịch, trong sáng. Đó là thứ tiếng Việt
của Truyện Kiềumà học giả Phạm Quỳnh hãnh diện gọi là “tiếng ta.”Đó cũng là thứ
tiếng Việt của Tự Lực Văn Đoàn, của Vũ Hoàng Chương, của Đinh Hùng, của các hệ
thống giáo dục, văn học, báo chí, chính trị, kinh tếthời Việt Nam Cộng Hòatrước
1975.
Điều rất đáng lo ngại
là ngày nay, trong khi tiếng Việt truyền thống được chúng ta gìn vàng giữ ngọc
với niềm tự hào ở hải ngoại, thì ở quê nhà nó đang bị thái hóa trầm trọngđểphù
hợp với lối sống vô liêm xỉ, thiếuđạo đức, mất hếttự ái dân tộc, gây ra bởimột
chế độ phi nhân tàn bạo lấy súng đạnmà áp bức người dân bất hạnh.
Những đồng nghiệp tại
trường Đại Học Sư Phạm Sài Gòn của tôi bị kẹt lại sau 30 - 4 - 1975 kể lại chuyện
đau lòng đầu tiên của họ khi “bên thắng cuộc” cho một cán bộ giáo dục và
đoàn tùy tùng đến tiếp quản ngôi trường khả kính đã đào tạo nhiều ngàn
giáo sư trung học đầy đủ khả năng và tư cách để phục vụ nền giáo dục nhân bản
và khai phóng của Việt Nam Cộng Hòa. Lối xưng hôthô lỗvà cách đối xử kiêu căng hằn
học của họ làm các cựu nhân viên giảng huấn(từgiảng viên cho đến giáo sư thực
thụ) choáng váng. Tất cả bị gọi bằng anh hay chị và tất cả bị gọi
là giáo viên. Giáo sư khoa trưởng bị đẩy ra khỏivăn phòng làm việc; câu
châm ngôn “lương sư hưng quốc” sơn bằng chữ lớn trên bức tường gần cổng trường
bị một lớp sơn mới quệt lên trên xóa hết tung tích!
Sau hơn 40 năm thái
hóa,tiếng Việt bên quê nhà đã có thêm rất nhiều từ vựng mà chúng ta thấy thật “chướng
tai” khi nghe nói và “gai mắt” khi thấy trong sách vở báo chí – với ý nghĩachẳng
trong sáng chút nào như được tuyên truyền. Từ vựng truyền thống đứng đắn chân
phương bị thay thế bằng một thứ từ vựng ngô nghê, thô tục, cọc cằn, nhưnhà hộ
sinh trở thànhxưởng đẻ; nữ quân nhântrở thànhlính
gái;lạp xưởng trở thànhcon
sâu mỡ!
Một số người thiện
chí trong cộng đồng tỵ nạn chúng ta (như hai ông Đào Văn Bình và Trần Văn
Giang) đã thu thập được khá nhiều từ vựngquái dị này và cảnh báo đồng hương hải
ngoại. Tác giả Đào Văn Bình đã cho lên Internet cuốn “Tự Điển Tiếng Việt Đổi Đời”
rất hữu ích cho giáo giới chúng ta muốn bảo vệ tiếng Việt truyền thống tinh tuyền
tại hải ngoại. Đó là những từ vựng, từ ngữ đãnhiễm độc mà chúng ta phải tránh,
không thể truyền bá trong cộng đồng hải ngoại,nhất là trong các lớp dạy tiếng
Việt truyền thống từ mẫu giáo cho đến trung học và đại học. Đây là vài từ vựng và
câu nói “đổi đời” tiêu biểutôi tìm thấy trongTĐTVĐĐ :động vật hoang dã(dã
thú),lao động nữ(nữ công nhân), tư duy(suy nghĩ), vô tư(thản
nhiên),anh muốn khẩn trương quản lý đời em(anh muốn cưới em ngay),lối
chụp hình tự sướng(cách chụp hình selfie).
Mức nhiễm độc của
tiếng Việt đổi đời ngày càng đáng sợ – nó đã tràn sang cả đại tác phẩm Truyện
Kiều của dân tộc Việt. Một báođộng đỏ thực sự!Truyện Kiều mà học giả Phạm Quỳnh
–trong ngày giỗ cụ Nguyễn Du linh đình năm 1924 tại Hà Nội – đã tôn vinh với
câu nói trước anh linh tiền nhân rằng “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn; tiếng ta
còn, nước ta còn” đang bị phỉ báng và bức hại tại quê nhà. Khai pháo bởi ông kỹ
sư cơ khí Đỗ Minh Xuân khi ông ta phổ biến cuốn sách có một tựa đề ngạo nghễ“Truyện
Kiều Nguyễn Du với tiếng Việt hiện đại, phổ thông, đại chúng và trong sáng” trong
một cuộc hội thảo về Truyện Kiềutổ chức cuối năm 2012 tại khu di tích Nguyễn Du
ở huyện Nghi Xuân,tỉnh Hà Tĩnh. Trong “công trình” ấy, ông đã sửa khoảng 1.000
chỗ trongtổng số 3.524 câu thơ Truyện Kiều!
Tại sao ông kỹ sư
cơ khí lại làm chuyện động trời như vậy? Đây là lý do tại sao ông quyết địnhsửa
đại tác phẩm của thi hào Nguyễn Du: “Truyện Kiều không còn thịnh như trước,
dorào cản điển tích, chữ Hán, từ cổ, từ địa phương – chữ nghĩa Truyện Kiều rườm
rà, trùng lặp, không hay, thiếu logic, trái văn cảnh.”Một công việc quái đản
xưa nay chưa thấy như vậy mà lại được anh hùng lao độngVũ Khiêu – một học
giả từng làm viện trưởng Viện xã hội học – khuyến khích và tán dương, với lời
nói quả quyết rằng sách này “là một đóng góp đáng kể vào việc nghiên cứu Truyện
Kiều.”
Còn nhớ xưa kia, vua Tự Đức rất giỏi
văn thơ mà chỉ dám “nhuận sắc” vài chỗ không đáng kể trong Truyện Kiều rồi cho
in nó thành “bản kinh”phổ biếntrong dân gian.Chúng ta cùng xem vài thí dụ về nỗ lực sửa Truyện Kiều kỳ
dị, lệch lạc, ngớ ngẩn, đoán mò, làm tối ý nghĩacủa ông Đỗ Minh Xuân [dựa vào bài
viết sắc bén có tựa đề “Cười té ghế hay đau thắt lòng với chữ sửa Truyện Kiều”
(khuyết danh tác giả) đăng tải trên Đời Sống Pháp Luật Online ngày 28-4-2014]:
• Lạ gì bỉ sắc tư
phong =Mỗi người thứ có thứ
không [lời văn cục súc,
quê mùa].
• Thời trân thức thức
sẵn bày=Quả
ngon thức thức xách tay[một
hành động thanh nhã, cao sang, dịu dàngtrở thành một hành vi thô lỗ – như thể
cô Kiều hái trái cây nhà mình, bỏ vào giỏ, rồi xách tay sang đưa cho Kim Trọng
ăn].
• Chưa xong điều
nghĩ đã dào mạch tương =Chưa
xong điều nghĩ đã chào vừng dương[chứng tỏ sựdốt nát, đoán mò, không hiểu “mạch tương” là “nước mắt” và “đã
dào mạch tương” là “nước mắt đã dào dạt ra”].
Theo cái kiểu“sửa chữa” Truyện Kiều
như hiện nay ở quê nhà thì chẳng bao lâu nữa chúng ta sẽ không còn Truyện Kiều,
dẫn đến chuyện không còn tiếng ta nữa, rồi bước kế tiếp là không còn nước ta nữa!
Thi hào Nguyễn Du và học giả Phạm Quỳnh nơi cửu tuyềnlàm sao tránh
khỏi nỗi đoạn trườngkhi biết đến điều đau đớn này?Bằng mọi giá, chúng ta phải
biết rõ ranh giới giữa tiếng Việt truyền thống và tiếng Việt “đổi đời” tới mức
thoái hóa bên quê nhà.Thứ tiếng Việt thoái hóa tồi tệ ấy không thể có chỗ đứng
trong các lớp dạy tiếng Việt truyền thống tại hải ngoại ở mọi trình độ.
ĐTPJUL2017
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét