Thông-tin đa
chiều là ngọn đuốc soi rọi mọi khía canh'' đen tối! Coi để biết, biết
để....tránh hay phản-biện!! Bài viết của
tác-giả, không nhất thiết là quan-điểm của THNT.
Kính
VP
Hồ Sơ Tộc Ác của Hội Thừa Sai Paris và Giáo Hội Công Giáo Việt Nam trong lịch sử
mất nước hồi cuối thế kỷ 19.
Nếu lấy năm 1533 làm cái mốc đầu tiên về sự có mặt của đạo Công
giáo trên đất nước Việt Nam thì tới nay (2003), Giáo hội Công giáo Việt Nam đã
có 470 năm lịch sử. Trong chiều dài thời gian gần 5 thế kỷ có khoảng hơn bốn
thập niên trong nửa cuối thế kỷ 19 (1852-1884) là thời gian thăng trầm, phức
tạp và ô nhục nhất trong giáo sử Công giáo Việt Nam. Đó chính là thời gian các
giáo sĩ trong Hội Thừa Sai Paris và khoảng 600,000 giáo dân đã tích cực giúp
cho thực dân Pháp hoàn thành dễ dàng cuộc xâm chiếm Việt Nam và mau chóng bình
định lãnh thổ để áp đặt nền thống trị lên dân tộc Việt Nam trong hơn 80 năm.
Những gì đã xảy ra trước và trong quá trình xâm lược Việt Nam
của thực dân Pháp đã khẳng định rằng: các giáo sĩ trong Hội Thừa Sai Paris đã
chủ động tạo ra cớ cho cuộc can thiệp võ trang của Pháp vào Việt Nam. Sử gia
Pháp Georges Coulet đã viết trong tác phẩm của ông Cultes et Religions de l’Indochine Annamite (Saigon, p. 99) như sau: “ Thiên Chúa giáo đã mở cửa cho quân đội Pháp và
đã là nguyên nhân trực tiếp của cuộc xâm lược đất nước này”.
Suốt thời gian giặc Pháp đô hộ, danh dự của tổ
quốc Việt Nam đã bị xỉ nhục nặng nề, sinh mạng và tài sản của nhân dân bị quân
địch xâm phạm nghiêm trọng. Đây là những vết hằn lịch sử khó có thể xóa mờ
trong ký ức của mọi người Việt yêu nước. Lịch sử mất nước của dân tộc Việt Nam
vào cuối thế kỷ 19 gắn liền với sự có mặt của Hội Thừa Sai Paris - một công cụ
mở rộng nước Chúa của Vatican, đồng thời cũng là một công cụ mở rộng thuộc địa
của thực dân Pháp. Sát cánh với Hội Thừa Sai Paris là Giáo Hội Công Giáo Việt
Nam vào thời điểm đó đã hiện nguyên hình là một tập đoàn Việt gian bán nước
theo giặc, trắng trợn phản bội Tổ Quốc.
Việc dựng lại một cách chân xác giai đoạn thăng trầm của lịch sử
mất nước ô nhục đó không phải là chuyện dễ dàng vì các sử liệu về giáo sử Công
giáo Việt Nam còn lưu lại ở Việt Nam rất hiếm hoi. Nhưng một sự may mắn đã đến
với chúng ta là sử gia Patrick J.N. Tuck, người Ấn Độ, giáo sư sử học tại đại
học Liverpool (Anh Quốc) đã bỏ ra nhiều công sức sưu tầm các tư liệu liên quan
đến các hoạt động của các giáo sĩ thừa sai Pháp và các chính sách của đế quốc
tại Việt Nam từ 1857 đến 1914.
Tất cả các tài liệu lịch sử quí giá này đều là những tài liệu do
chính văn khố của Hội Thừa Sai Paris cung cấp. Đây là một món quà tinh thần quí
giá cho những ai hằng thao thức tìm hiểu giáo sử Công giáo Việt Nam. Bộ sưu tập
tài liệu về Hội Thừa Sai Paris của sử gia Patrick J.N. Tuck được viết bằng Anh
ngữ dưới tựa đề “French Catholic
Missionaries and the Politics of Imperialism in Vietnam 1857-1914” do Liverpool University Press xuất bản tại
Anh Quốc năm 1987. Bản dịch Việt ngữ do UBĐKCGYNVN/TP.HCM thực hiện và phổ biến
năm 1989 dưới tựa đề: “Thừa
Sai Công Giáo Pháp và các chính sách của dế quốc tại Việt Nam 1857-1914”. (Mỗi khi trích dẫn tài liệu này, chúng tôi xin
ghi tắt TSCG) . Ngoài tư liệu của Patrick Tuck, chúng tôi
còn tham khảo thêm sách “Sự Du Nhập của Thiên Chúa giáo vào Việt Nam từ thế kỷ 17 đến
thế kỷ 19” của giáo sư
Nguyễn Văn Kiệm với sự hợp tác của Viện Nghiên Cứu Tôn Giáo và Hội Khoa Học
Lịch Sử Việt Nam (mỗi khi trích dẫn sách này, chúng tôi xin ghi vắn tắt SDN/TCG).
Cả hai cuốn sách nói trên cung cấp cho chúng ta rất nhiều bằng
chứng lịch sử về các hoạt động đầy tội ác của các giáo sĩ thuộc Hội Thừa Sai
Paris trong nỗ lực vận động Vatican và hoàng gia Pháp (Napoleon III) xâm chiến
Việt Nam hầu thực hiện hai mục tiêu vừa truyền giáo vừa xâm chiếm thuộc địa.
I. Sự thành lập hội
Thừa Sai Paris và tiến trình tội ác của hội này đối với dân tộc Viêt Nam.
Sáng kiến đầu tiên đưa đến việc thành lập hội Thừa Sai Paris là
do Alexandre de Rhôde. Vào năm 1652 và 1653, Alexandre de Rhôde về Âu châu vận
động Vatican và Pháp thành lập hội Thừa Sai gồm toàn giáo sĩ người Pháp để gửi
sang Viễn Đông truyền đạo và mở rộng ảnh hưởng của Pháp tại vùng này. Tuy
nhiên, vào thời điểm đó, ảnh hưởng của Bồ Đào Nha tại Á Châu còn mạnh. Đại sứ
Bồ Đào Nha bên cạnh Vatican cực lực phản đối việc thành lập Hội Thừa Sai Pháp
và hăm dọa sẽ bắt bỏ tù các giáo sĩ đến Á Châu mà không có phép của hoàng gia
Bồ. Phải đợi đến năm 1658, khi hoàng gia Bồ suy yếu mọi mặt và không còn đủ sức
tài trợ cho cuộc truyền giáo tại Á Châu, nên đã bị Tòa Thánh chính thức thu hồi
“độc quyền truyền giáo” (Padroado).
Hội Thừa Sai Paris được chính thức thành lập
năm 1663 gồm toàn các giáo sĩ người Pháp thuộc ngành triều (secular), tức là
các tu sĩ chuyên việc trông coi giáo dân tại các giáo xứ. Kể từ đó, mỗi khi
thiết lập một giáo phận mới tại Á Châu, Vatican đều giao các giáo phận mới cho
các giáo sĩ thừa sai Pháp cai quản. Mặc dầu hoạt động của các thừa sai đều
thuộc về tôn giáo, nhưng chính quyền Pháp đã ra lệnh cho bộ Ngoại Giao, bộ
Thương Mại và nhất là bộ Hải Quân và Thuộc Địa phải tích cực yểm trợ cho các
giáo sĩ thừa sai (TSCG, trang 27). Ông Bonifacy, tác giả cuốn “Les Debuts du
Christianisme en Annam” xuất bản tại Hà-Nội năm 1930 đã viết: “Vai trò của Alexandre de Rhôde trong việc
thành lập hội Thừa Sai Paris đã đưa giáo hội Công giáo Đàng Trong và Đàng Ngoài
ra khỏi vòng kiểm soát của người Bồ Đào Nha, và đem lại cho người Pháp vai trò
quan trọng nhất ở bán đảo Đông Dương” p. 16-17 (SDN/TCG, trang 123).
Việc thành lập hội Thừa Sai Paris năm 1663 không phải là một
hành vi tôn giáo thuần túy mà là một nhu cầu cần thiết của chủ nghĩa thực dân
Pháp thời đó, vì hội này do chính phủ Pháp thành lập và tài trợ để làm công cụ
thực hiện tham vọng bành trướng thuộc địa ở Viễn Đông. Danh từ “giáo sĩ thừa
sai” (missionaries) được định nghĩa là người được cử ra nước ngoài để thực hiện
những công việc do cấp trên sai phái. Cấp trên ở đây không hẳn chỉ là Toà Thánh
La Mã mà chủ yếu là quốc gia đã lập ra hội Thừa Sai. Tự Điển Bách Khoa Hoàn Vũ
(Encyclopedia Universallis) của Pháp xuất bản năm 1990 cũng thêm định nghĩa Hội
Thừa Sai (Mission) như sau: “Hội Thừa Sai cũng tiến hành nhiệm vụ thực dân,
cũng chinh phục và tiêu diệt, tham gia các cuộc chinh phạt để đoạt lấy quyền uy
vinh quang và lợi tức. Điều quan trọng nhất của Hội Thừa Sai là đồng hóa văn
hóa của các xứ bản địa” (SDN/TCG, trang 302).
Gần hai thế kỷ sau ngày thành lập, đến đầu thế kỷ 19 có 3 biến
cố xảy ra làm cho Hội Thừa Sai Paris trở thành hội Truyền Giáo mạnh nhất của
Giáo hội Công giáo:
- Biến cố 1: Vào năm 1822, các nhà tư bản Pháp thành lập tại
Lyon một tổ chức lấy tên là “Hội Truyền Bá Đức Tin”.Đây là một trung tâm tài
chánh lớn lao yểm trợ các hoạt động của các giáo sĩ thừa sai tại Viễn Đông. Năm
1839, quĩ của hội lên tới hai triệu francs.
- Biến cố 2: Năm 1839, giáo hoàng Gregory XVI chính thức thừa
nhận hội Thừa Sai Paris là cơ quan truyền giáo chủ lực tại Viễn Đông. Tuy
nhiên, trọng tâm trách nhiệm của Hội là Việt Nam.>
- Biến cố 3: Cuộc đảo chánh do các giáo sĩ Pháp chủ trương năm
1851 đã đưa Louis Napoleon lên ngôi hoàng đế (tức Napoleon III). Sự kiện này
đưa đến sự liên kết mật thiết giữa hoàng gia Pháp và Vatican. Điển hình là vụ
Vatican và Pháp dàn dựng màn kịch bịp bợm “Phép lạ Lộ Đức” năm 1858 (xin đọc
webpage Giao Điểm tháng 8, 2003).
A.- Các giáo sĩ thừa
sai tích cực vận động Vatican và chính quyền Pháp xâm chiếm Việt Nam.
- Các giáo sĩ thừa sai Paris giao du thân mật với hoàng hậu
Eugénie, họ đã lợi dụng hoàng hậu xúi giục Napoleon III xâm chiếm Việt Nam từ
năm 1852. Do đó, Napoleon III đã đích thân ra lệnh cho phái bộ ngoại giao Pháp
tại Trung Quốc phải thâu thập các tài liệu về công cuộc truyền giáo tại Đông
Dương (TSCGP, trang 53).
- Đầu tháng 5/1857, giám mục Pellerin và linh mục Huc đến Paris
trình bày kế hoạch đánh chiếm Đông Dương tại Ủy Ban Thuộc Địa Pháp. Ngày
21-5-1857, giám mục Pellerin và linh mục Huc được Napoleon III tiếp kiến tại
hoàng cung. Sau đó, vào tháng 6 và tháng 8 năm 1857, Pellerin và Huc lại được
Napoleon tiếp kiến thêm hai lần nữa. Toàn bộ kế hoạch xâm lược Việt Nam do hai
giáo sĩ thừa sai này đề nghị đều được giáo hoàng Pio IX và Napoleon III tán
thành (TSCGP, trang 554).
Giám mục Pellerin sinh tại Pháp năm 1813, được
cử làm giám mục tại Saigon năm 1844. Năm 1857, y về Pháp vận động chiếm Việt
Nam. Năm 1859, Pellerin trở lại Việt Nam trên chiếm hạm của Rigault de
Genouilly, nhân dịp này, y xúi giục đô đốc Genouilly đánh chiếm Đà Nẵng, nhưng
Genouilly không chịu vì y muốn chiếm Saigon trước đã. Sau đó, Pellerin được hội
Thừa Sai đổi về Penang dạy học, y chết tại đó năm 1862, thọ 49 tuổi (TSCGP,
trang 554).
Linh mục Huc sinh tại Pháp năm 1814. Trong các năm 1844-1846,
linh mục Huc mạo hiểm đến giảng đạo tại Tây Tạng và miền Tân Cương (Trung
Quốc). Năm 1850, linh mục Huc xuất bản mấy cuốn sách kể chuyện mạo hiểm giảng
đạo tại các xứ huyền bí Á Châu, đồng thời viết sách kêu gọi chính quyền Pháp
xâm chiếm Triều Tiên, Madagascar và Việt Nam làm thuộc địa. Napoleon III đã đọc
và rất chú ý đến các sách của linh mục Huc. Do đó, sau khi tiếp xúc với linh
mục Huc năm 1857 tại hoàng cung, Napoleon II đã cho thành lập “Ủy Ban Brenier”
để nghiên cứu đề nghị của linh mục Huc. Trong khi đó, giám mục Pellerin đến
thuyết giảng tại nhà thờ Notre Dame de Paris và vận động tờ báo L’Univers ủng
hộ việc xâm chiếm Việt Nam làm thuộc địa.
Tháng 5/1857, ủy ban Brenier lập bản phúc trình đề nghị hoàng đế
Napoleon III áp đặt chế độ bảo hộ lên Việt Nam để phục vụ lợi ích của nước
Pháp. Ủy ban này đề nghị thực hiện một cuộc viễn chinh với một hạm đội gồm 6
tàu chiến và 2600 thủy quân, kinh phí 4 triệu quan. Quân viễn chinh sẽ được sự
yểm trợ của hải quân Pháp đang đóng tại Trung Quốc và sự hỗ trợ tích cực của
600,000 giáo dân công giáo bản địa.
Hoàng đế Napoleon III chấp thuận đề nghị của ủy ban Brenier ngày
21-9-1857. Mấy tháng sau, Napoleon III giao nhiệm vụ cụ thể cho đô đốc Rigoult
de Genouilly để thực hiện cuộc bảo hộ của Pháp trên toàn lãnh thổ Việt Nam
(TSCGP, trang 57-61). Cuộc chiến tranh xâm lược kéo dài từ cuối 1857 đến tháng
2/1861, Pháp chiếm trọn Côn Đảo, Biên Hòa, Bà Rịa, Vĩnh Long và toàn miền Đông
Nam Kỳ.
B. – Quân dội viễn
chinh Pháp và các giáo sĩ thừa sai tại Việt Nam có cùng mục tiêu chung.
- Cơ quan tối cao điều hành cuộc viễn chinh xâm lược Việt Nam là
bộ Hải Quân và Thuộc Địa Pháp, trụ sở tại Paris, do Chasseloup Laubat làm bộ
trưởng. Chasseloup Laubat công khai tuyên bố phải biến xứ Nam Kỳ thành một
Philippines thứ hai tại Á Châu. Nói cách khác, biến Nam Kỳ thành một xứ Công
giáo là một giải pháp tốt nhất để ổn định thuộc địa một cách lâu dài.
Như vậy rõ ràng là quan điểm của bộ Hải Quân và Thuộc Địa của
chính quyền Pháp coi việc Công giáo hóa Nam Kỳ là một nhu cầu chính trị (TSCGP,
trang 123). Để thực hiện mục tiêu này, bộ Hải Quân và Thuộc Địa Pháp đã đưa ra
hai quyết định sau đây:
1. Chính quyền Hải Quân Pháp nhận trách nhiệm thành lập một hệ
thống các giáo xứ Công Giáo tại Nam Kỳ.
2. Các giáo sĩ thừa sai Pháp được coi là những công chức phục vụ
nhà nước nên họ được hưởng lương hàng năm. Năm 1864, nhà nước thuộc địa Pháp đã
trả cho các giáo sĩ thừa sai 40,000 Francs; năm 1879 tăng lên 145,000 Francs.
(TSCGP, trang 134-135).
C.- Các giáo sĩ thừa
sai tích cực giúp thực dân Pháp mau chóng bình định lãnh thổ thuộc địa.
1.- Giám
mục Puginier (1835-1892): Dựa
vào thế lực mạnh của hội Thừa Sai Paris đối với chính quyền Pháp, giám mục
Puginier đã tỏ thái độ coi thường các quan chức thuộc địa tại Việt Nam. Vào
tháng 7-1874, giám mục Puginier viết thư mắng đô đốc Dupré đã để cho thuộc hạ
là Francis Garnier rút quân khỏi Bắc Việt. Tháng 8-1885, giám mục Puginier đòi
tướng Courcy phải bắt Nguyễn Văn Tường bỏ tù. Giám mục Puginier đưa ra chủ
trương ổn định thuộc địa bằng cách Công giáo hoá thuộc địa. Y tuyên bố: “Khi nào Bắc Kỳ biến thành một xứ Công giáo
thì nó sẽ là một nước Pháp nhỏ”(TSCGP, trang 560-562)
Puginier đòi hỏi chính quyền thuộc địa Pháp phải tiêu diệt giới
nho sĩ Việt Nam (Văn Thân) vì họ được dân chúng kính trọng, họ không chấp nhận
sự đô hộ của Pháp và chẳng ai trong số họ chịu theo đạo.
Năm 1886, giám mục Puginier ra lệnh cho linh mục Trần Lục ở Phát
Diệm tăng viện cho Pháp 5,000 giáo dân binh để phá chiến lũy Ba Đình của Đinh
Công Tráng.
Giám mục Puginier là người đã để lại nhiều dấu ấn sâu đậm trên
chính sách bình định Việt Nam của thực dân Pháp. Chính ông ta đã cung cấp cho
Pháp rất nhiều tin tức tình báo do giáo dân khắp nơi thu thập báo cáo về các
cuộc phản công của triều đình Huế và các cuộc binh biến của quân kháng chiến.
Puginier chết tại Hà Nội năm 1892. Hắn được chính phủ Pháp truy
tặng Bảo Quốc Huân Chương và truy phong Sĩ Quan Danh Dự của quân đội Pháp để
xác nhận công lao to lớn của giáo sĩ thừa sai này trong việc Pháp đánh chiếm
Bắc Kỳ hồi cuối thế kỷ 19.
2.- Giám
mục Gauthier (1810-1877) :
Gauthier lấy tên Việt là Ngô Gia Hậu, được cử làm giám mục Nam Đàng Ngoài từ
năm 1846, có 66,350 giáo dân rải rác trong 346 xứ dạo (TSCGP, trg 528-530).
Trong bức thư gửi đô đốc Dupré ngày 15-1-1874, giám mục Gauthier
và Puginier đã thúc giục chính quyền thuộc địa Pháp thiết lập một chính phủ
Công giáo tại Bắc Việt (theo “Christianisme et Colonialisme au Vietnam
1857-1914 par Cao Huy Thuần – Paris 1960, p. 306).
Năm 1874, Gauthier khuyến khích các làng Công giáo tổ chức các
đội dân quân võ trang, sau đó ra lệnh cho họ kéo quân đi đánh phá các làng bên
lương ở Nghệ An và Hà Tĩnh.
Giám mục Gauthier và Puginier có nhiều tên đệ tử trung thành
xuất sắc, trong số đó có Nguyễn Trường Tộ (theo hầu Gauthier 10 năm) và hai
linh mục Nguyễn Hoằng và Nguyễn Điều.
II. Tội Ác bán nước
theo giặc của Giáo hội Công giáo Việt Nam trong nửa cuối thế kỷ 19.
Vào nửa cuối thế kỷ 19, có khoảng 600,000
người Việt Nam đã mù quáng đi theo tôn giáo lạ mang tính chất vong bản. Họ đã
dễ dàng lìa bỏ nếp sống văn hóa truyền thống của dân tộc. Tuy nhiên, trước khi
Pháp đổ quân xâm chiếm Việt Nam, những người Công giáo được coi là những công
dân lầm lạc vì nhẹ dạ và ngu dốt nên Triều Đình và nhân dân Việt Nam không nỡ
ra tay tiêu diệt họ. Nhưng kể từ khi Pháp chiếm Đà Nẵng năm 1856, đa số giáo
dân Công giáo đã trắng trợn ra mặt theo giặc và phản bội Tổ Quốc.
Hiện tượng đầu tiên là nhiều ngàn giáo dân rời bỏ Bắc Kỳ kéo vào
Đà Nẵng xin đi lính tập cho Pháp. Đô đốc Rigault de Genouilly tiếp nhận họ tại
Sơn Trà và huấn luyện họ tại đây. Sau đó, Genouilly đã tuyển chọn 6000 người
trong số họ để nhập vào liên quân Pháp-Tây Ba Nha đánh chiếm Saigon.
Trong công cuộc xâm chiếm và bình định Việt Nam, thực dân Pháp
đã được giáo hội Công giáo Việt Nam hỗ trợ tích cực mọi mặt. Trong số các tín
đồ Việt gian, có những nhân vật rất nổi tiếng sau đây :
Tổng đốc Phương
1. Tổng
Đốc Phương, tức Đỗ hữu Phương,
sinh năm 1844 tại Saigon, nguyên chủng sinh tại Penang, thông thạo tiếng Pháp,
được Pháp chọn tham gia phái đoàn của Pháp trong cuộc thương lượng với triều
đình Huế năm 1868. Sau đó Phương tham gia các cuộc tảo thanh chống Nguyễn Trung
Trực tại Rạch Giá. Năm 1872, Phương được Pháp thăng chức tổng đốc Saigon.
Trần bá Lộc.
2. Trần
Bá Lộc, sinh năm 1834 trong
một gia đình Công giáo tại Long Xuyên. Lộc xin vào đoàn quân Công giáo do
Charner tổ chức chuyên việc lùng quét các nhóm quân kháng chiến. Sau khi tham
gia nhiều trận đánh tái chiếm Rạch Giá, Lộc được Pháp phong chức tổng đốc Rạch
Giá. Y là tên đại Việt gian được Pháp tín nhiệm trao nhiệm vụ triệt hạ phong
trào kháng chiến từ Quảng Nam đến Phan Thiết. Với nhiệm vụ này, Trần Bá Lộc đã
giết hại khoảng 25 ngàn người Việt yêu nước.
3. Trần
Tử Ca, nguyên là một người
bên lương, sinh trưởng tại Gò Vấp. Lúc đầu y đi theo kháng chiến, nhưng sau đó
y theo đạo, rời bỏ hàng ngũ kháng chiến theo giặc chống lại Tổ Quốc. Năm 1862,
Ca được Pháp bổ làm tri huyện Hóc Môn. Năm 1865, y đi theo quân đội Pháp càn quét
các tỉnh miền Tây. Đêm 9-2-1885, Ca bị nghĩa quân giết chết .
4. Huỳnh
Công Tấn là một người Công giáo
trong hàng ngũ nghĩa quân của Trương Công Định từ 1861. Ngày 20-8-1864, Tấn
phản bội, bất thần phục kích giết chết Trương Định tại Gò Công. Ngày 19-9-1868,
Huỳnh Công Tấn cùng với 127 lính tập Công giáo vây bắt Nguyễn Trung Trực tại
đảo Phú Quốc. Như vậy, riêng một mình y đã sát hại được hai nhà cách mạng kháng
chiến nổi tiếng tại Nam Kỳ. Y được Pháp trao tặng Bắc Đẩu Bội Tinh cho hai
chiến công lớn này !
5. Tạ
Văn Phụng, tức Phêrô Lê Duy
Phụng, nguyên chủng sinh tại Penang, lấy danh nghĩa là con cháu nhà Lê dấy binh
khởi nghĩa tại Bắc Kỳ chống triều đình Huế năm 1858. Tạ Văn Phụng nhờ các giáo
sĩ liên lạc với chính phủ Pháp để xin giúp đỡ. Napoleon III đồng ý, và cử tên
gián điệp Duval sang Việt Nam giúp Phụng với mục đích biến Bắc Kỳ thành một xứ
Công giáo với một chính quyền Công giáo. Duval đi Macao mua vũ khí và giúp
Phụng thành lập những đoàn quân gồm đa số là giáo dân. Trong các tháng 6 và 7-1863,
Phụng khởi quân đánh chiếm một vùng rộng lớn ở đồng bằng Bắc Bộ gồn 3 tỉnh
Quảng Yên, Hải Dương và Nam Định.Triều đình Huế cử Nguyễn Tri Phương đem quân
ra Bắc dẹp loạn. Tạ Văn Phụng bị bắt đem về Huế xử tử.
Vài điều trình bày trên đây chỉ là bản phác họa một cách trung
thực những giai đoạn của Việt Nam vong quốc sử hồi nửa cuối thế kỷ 19. Đây là
điều cần thiết để nhắc nhở toàn dân Việt Nam phải luôn luôn đề cao cảnh giác
phòng ngừa những thế lực ngoại bang cùng tay sai bản địa lấy danh nghĩa tôn
giáo để xâm lăng chủ quyền và phá hoại nền văn hóa cổ truyền của dân tộc.
Riêng đối với Vatican và Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, hai tổ
chức này không thể phủ nhận trách nhiệm trong việc họ đã cấu kết với thực dân
Pháp chống lại nước Việt Nam gần một thế kỷ (từ giữa tk 19 dến gần giữa tk 20).
Gần đây, Giáo Hoàng đã thú nhận những tội lỗi của Vatican đối với nhiều quốc
gia và dân tộc trên thế giới. Còn bao giờ thì Giáo hội Công giáo Việt Nam mới
lên tiếng tạ tội với dân tộc về những lỗi lầm trong quá khứ đối với Tổ Quốc ?
Các bạn Công giáo Việt Nam: để tỏ tình dân tộc, các bạn cần áp
lực Giáo Hội Công Giáo Việt Nam tách hẳn khỏi ảnh hưởng của Vatican (như Anh
Quốc đã làm trước đây, và Trung Quốc đang làm). Tại sao các bạn không thể “hiệp
thông thẳng với Chúa” mà không cần trung gian của Vatican hay cái giáo hội tay
sai của Vatican ?
Charlie Nguyễn
Sept 2003
1.
Anh Hùng Dân Tộc
Trương Công Định
2.
Từ năm Tự Đức thứ 11
trở đi, đất nước đi vào khúc quanh lịch sử. Pháp bắt đầu đưa quân xâm chiếm đất
nước ta: Tấn công Đà Nẵng (1858), chiếm Gia Định (1859), chiếm Định Tường
(1861), Biên Hoà và Vĩnh Long (1862). Một bộ phận đất đai của nước ViệtNam thân
yêu lần lượt rơi vào tay thưc dân Pháp. Nhân dân khổ cực, lòng người ly tán.
Nội bộ triều đình Tự Đức phân hoá. Đất nước trên bờ vực thẳm. Ấy thế mà Tự Đức
và triều thần lại nhu nhược, không đề ra được một quyết sách nào khả dĩ để
chống lại hiểm hoại xâm lăng của Pháp, nhằm bảo vệ đất nước. Khiếp sợ trước lực
lượng hùng mạnh, vũ khí tối tân của Pháp, vua Tự Đức đã lệnh cho Hiệp biện Đại
học sĩ Phan Thanh Giản và Lâm Duy Tiếp vào Gia Định ký hoà ước với thiếu tướng
Hải quân Pháp Bonard đại diện cho Chính phủ Pháp vào ngày 09/5/1862. Hoà ước
này được gọi là hoà ước Nhâm Tuất. Thực chất nội dung của bản hoà ước Nhâm Tuất
là một văn bản triều đình Tự Đức đầu hàng, mở đường cho thực dân Pháp xâm chiếm
đất nước ta.
3.
Thời điểm này, ngọn cờ
chống Pháp đã chuyển hẳn sang nhân dân, mà đứng đầu là các nhóm nghĩa quân dưới
sự chủ xướng và lãnh đạo của Đỗ Đình Thoại, Phủ Cậu, Thiên Hộ Dương, Quảng Tu,
Nguyễn Trung Trực và Trương Định. Lực lượng nghĩa quân chống Pháp dưới sự lãnh
đạo của Trương Định là đông hơn cả, có ảnh hưởng rất lớn đến phong trào chống
xâm lăng, gây cho địch nhiều tổn thất.
4.
Trương Định còn có tên
là Trương Công Định. Ông sinh năm 1820 tại làng Tịnh Khê, huyện Sơn Tịnh, tỉnh
Quảng Ngãi. Trương Định sống ở quê hương Quảng Ngãi, mãi đến năm 24 tuổi mới
theo cha là Trương Cầm, người giữ chức Chưởng lý Thủy sư vào Gia Định. Tại đây,
Trương Định lập gia đình với bà Lê Thị Thưởng con gái của một nhà hào phú ở Tân
An, Định Tường. Sau khi lập gia đình, ông ở luôn tại quê vợ. Năm 1850, hưởng
ứng chính sách khai hoang của triều đình, Trương Định đứng ra chiêu mộ khoảng
500 dân nghèo khai hoang lập ấp. Với công lao ấy, ông được triều đình Huế phong
chức Quản cơ, hàm Lục phẩm, nên người đương thời thường gọi ông là Quản Định.
5.
Năm 1859, khi Pháp đưa
quân chiếm thành Gia Định, Trương Định đem nghĩa binh lên đóng ở Thuận Kiều để
ngăn chặn. Trong quá trình lãnh đạo nghĩa quân chống Pháp, Trương Định đã đánh
thắng giặc Pháp ở mặt trận Thị Nghè, Cây mai… Năm 1860, dưới quyền của Tổng
thống quân vụ Nguyễn Tri Phương, Trương Định tham gia giữ đồn Kỳ Hoà, được
triều đình phong chức Phó lãnh binh. Sau khi đồn Kỳ Hoà thất thủ, ông cùng
nghĩa binh rút về Gò Công xây dựng căn cứ kháng chiến chống Pháp. Trương Định
đã tổ chức nhiều trận phục kích địch ở Gò Công, Tân An, Mỹ Tho, Chợ Lớn làm cho
Pháp bị tổn thất lực lượng rất nhiều.
6.
Sau khi ký hoà ước
Nhâm Tuất, triều đình Huế cắt 03 tỉnh miền Đông Nam Kỳ giao cho Pháp. Triều
đình vừa phong ông chức Lãnh binh, vừa buộc ông phải chuyển đi nhậm chức ở An
Giang và giải tán nghĩa quân chống Pháp. Trước sự nhu nhược của Tự Đức, Trương
Định cương quyết chống lại lệnh của triều đình, ở lại Gò Công, Mỹ Tho tiếp tục
lãnh đạo nghĩa quân và cùng nhân dân chống Pháp. Nghĩa quân và nhân dân tôn
Trương Định làm Bình Tây đại Nguyên soái. Ông là người thương dân chân thành và
yêu nước nồng nàn, sẵn sàng chấp nhận gian khổ, hy sinh, quyết tâm chống giặc
Pháp xâm lược đến cùng. Trương Định từng tuyên bố: “Chúng tôi sẽ lấy
lau làm cờ, chặt tầm vông làm vũ khí. Dứt khoát không bao giờ ngừng chống bọn
giặc cướp nước”. Trong tuyên ngôn công bố với triều đình và nhân
dân, Trương Định nêu rõ: “Từ năm thứ 12 của triều vua Tự Đức (1858), bọn
man di tây phương đã xâm nhập xứ này. Chúng tiếp tục gây hấn, lần lượt chiếm ba
tỉnh Gia Định, Định Tường và Biên Hoà. Dân ba tỉnh này đã nếm qua mọi tai ương.
Sau đó, một hoà ước đã ký kết với Nguyễn triều chỉ gây thêm lòng phẩn nộ và
niềm thất vọng của nhân dân ba tỉnh. Nhân dân ba tỉnh này thiết tha muốn khôi
phục địa vị cũ bèn tôn chúng tôi làm lãnh tụ. Vậy chúng tôi không thể dừng làm
điều chúng tôi đang làm. Cho nên chúng tôi sẵn sàng chiến đấu ở miền Đông cũng
như miền Tây. Chúng tôi sẽ đề kháng, chúng tôi sẽ xông pha và sẽ phá tan lực
lượng quân địch…Dân chúng đã đã nói: Chúng ta chết chứ không chịu làm tôi tớ
cho giặc…” Nội dung bản tuyên ngôn thể hiện lập trường và quyết tâm
chống Pháp, bảo vệ đất nước của người thủ lĩnh nghĩa quân và của nhân dân Việt
Nam. Lúc này, lực lượng nghĩa quân của Trương Định lên đến gần 6.000 người. Ông
được những người chủ chiến ở triều đình, cũng như các nhân sĩ và nhân dân ủng
hộ. Nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu và Phan Văn Trị, cùng nhiều danh sĩ ở Nam kỳ
nhiệt tình ủng hộ Trương Định trong công cuộc chống Pháp. Trương Định đã liên
kết được với các lực lượng nghĩa quân của Nguyễn Trung Trực, Nguyễn Hữu Huân,
Võ Duy Dương, Đỗ Đình Thoại…cùng phối hợp tổ chức các trận đánh Pháp. Địa bàn
hoạt động của nghĩa quân Trương Định mở rộng từ Gò Công đến Chợ Lớn, Gia Định,
từ biển đông đến biên giới Campuchia. Trong tác phẩm Suvernir de l’expédition
de Cochinchine 1861 – 1862, xuất bản tại Paris năm 1865 đã viết về lực lượng
chiến đấu của Trương Định như sau:“Họ đánh theo kiểu du kích, làm chủ nông
thôn. Khi cần tiêu diệt một cứ điểm nào thì họ tập trung lại. Khi tấn công cũng
như khi rút lui, họ biết lợi dụng vô số những chướng ngại vật tự nhiên của xứ
họ. Một xứ có nhiều sông rạch, rừng bụi, đồng lúa, đầm lầy. Họ kín đáo lánh mình,
thình lình xuất hiện, nổ súng tấn công…Làm cho đối phương luôn luôn ở trong thế
đề phòng, mệt mỏi, kiệt sức, cuối cùng phải bỏ cuộc chịu thua…” . Từ
căn cứ kháng chiến, nghiã quân của Trương Định liên tục tấn công các đồn, bốt
của Pháp. Lúc này, quân Pháp một mặt huy động lực lượng hùng hậu bao vây căn cứ
Gò Công, một mặt dụ hàng Trương Định. Nhưng, ông vẫn một lòng chống Pháp đến
cùng. Ngày 26/02/1863, Pháp mở đợt tấn công vào căn cứ nghĩa quân. Cuộc chiến
diễn ra vô cùng ác liệt. Trương Định buộc phải rút quân về Biên Hoà lập căn cứ
ở Lý Nhơn và đưa một bộ phận nghĩa quân về Thủ Dầu Một – Tây Ninh để tiếp tục
chiến đấu. Cuối năm 1864, trong một trận chiến tại căn cứ Tân Hoà, ông rơi vào
vòng vây của quân Pháp. Do sự phản bội của Huỳnh Tấn, tên này trước kia từng
theo ông chống Pháp đã rời bỏ hàng ngũ kháng chiến về làm tay sai cho Pháp.
Trương Định và lực lượng nghĩa quân quyết tử chiến với giặc. Trong lúc chiến
đấu, không may ông bị đạn bắn gãy xương sống. Không để rơi vào tay giặc, Trương
Định rút gươm tự sát vào ngày 20/8/1864, để bảo tồn khí tiết khi tuổi đời mới
44 tuổi. Cái chết của Trương Định là tổn thất lớn đối với phong trào kháng
chiến chống Pháp của nghĩa quân và nhân dân ta lúc bấy giờ.
7.
Thương tiếc người anh
hùng dân tộc, nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã làm 12 bài thơ và 01 bài văn tế khóc
người anh hùng:
8.
“Trời
Bến Nghé mây mưa sùi sụt,
9.
thương
đấng anh hùng gặp lúc gian truân
10.
Đất
Gò Công cây cỏ ủ ê
11.
Cảm
niềm thần tử, hết lòng trung ái
12.
Xưa
còn làm tướng, giốc rạng ngời hai chữ Bình Tây
13.
Nay
thác theo thần, xin dựng hộ một câu phúc thán….”
14.
Cuộc khởi nghĩa chiến
đấu chống giặc Pháp xâm lược của Trương Định chỉ trong thời gian ngắn từ năm
1859 đến 1864 đã trở thành điểm son ngời sáng trong lịch sử dựng nước , giữ
nước và chống ngoại xâm của dân tộc ta. Và, Trương Định đã trở thành người thủ
lĩnh vĩ đại của nghĩa quân chống giặc Pháp xâm lược.
15.
Từ ngày Trương Định hy
sinh vì đất nước đến nay đã tròn 150 năm (1864 – 2014), qua các thời kỳ, có
nhiều tác phẩm lịch sử, văn học, báo chí, sân khấu…nói về cuộc khởi nghĩa và
vai trò lịch sử của ông - Người anh hùng dân tộc. Cùng với các tác giả là người
Việt Nam, còn có rất nhiều tác giả là người Pháp viết về cuộc khởi nghĩa của
Trương Định với tất cả lòng khâm phục. Ngay cả Vial - một quan cai trị cao cấp
của Pháp thời ấy đã gọi Trương Định là
16.
Nhà
đại lãnh tụ của quân khởi nghĩa.
17.
Đối với nhân dân, đặc
biệt là nhân dân Gò Công và miền Nam xem Trương Định là người anh hùng dân tộc.
Và, là vị thần bảo hộ cuộc sống của mình. Qua bao đời nay, nhân dân Gò Công đã
xây dựng, tu sửa, tôn tạo mộ, đền thờ và dựng tượng Trương Định. Hàng năm, tại
Gò Công long trọng tổ chức lễ cúng tế, tưởng nhớ Trương Định. Trước năm 1975,
hàng năm, lễ giỗ Trương Định được tổ chức vào ngày 17 và 18 tháng 7 âm lịch. Từ
năm 1975 đến nay, hàng năm, vào hai ngày 19 và 20 tháng 8 Dương lịch, Gò Công
đều tổ chức lễ hội Văn hoá anh hùng Trương Định. Đây là một trong những Lễ hội
lớn ở miền Nam đất nước. Mục đích của lễ hội Trương Định là hướng về cội nguồn,
tưởng nhớ công đức của tiền nhân đối với dân tộc và đất nước. Hằng năm, công
chúng đến với lễ hội với tấm lòng ngưởng mộ anh hùng Trương Định và nhận thức
sâu sắc thêm về truyền thống yêu nước, tinh thần chống ngoại xâm của dân tộc
ta. Hình tượng Trương Định, người thủ lĩnh vĩ đại của nghĩa quân chống Pháp
sống mãi với non sông, đất nước.
18.
Bảy Hiền biên soạn
19.
"Anh Hùng
Dân Tộc Trương Công Định & tên "phản tướng" Huỳnh Công Tấn" !
20.
------------------------------ --------------------------
21.
22.
Ông Trần Quang
Diệu viết;..."Huỳnh
Công Tấn là một
người
Công giáo trong hàng ngũ nghĩa quân của Trương Công Định từ 1861. Ngày 20-8-1864, Tấn phản bội, bất thần phục kích giết chết Trương Định tại Gò Công. Ngày 19-9-1868, Huỳnh Công Tấn cùng với
127 lính tập
Công giáo vây bắt Nguyễn
Trung Trực tại đảo Phú Quốc. Như vậy,
riêng một
mình y đã sát hại được
hai nhà cách mạng kháng chiến
nổi
tiếng
tại Nam Kỳ. Y được Pháp trao tặng Bắc Đẩu Bội Tinh cho hai chiến công lớn này! "
=> (TK tô đậm màu vàng)
23.
------------------------------
------------------------------ --------------
24.
25.
Kính thưa quý Đồng hương
và Quý vị quan tâm
26.
27.
1) Viết như trên, TK tôi
không biết ông Diêu... "muốn" ca ngợi, tôn
vinh ông Trương Công Định là "Anh Hùng Dân Tộc", hay
ông đang "chế diễu, mỉa mai" khi đề cao Huỳnh Công Tấn ..."riêng
một
mình y đã sát hại được
hai nhà cách mạng kháng chiến
nổi
tiếng
tại
Nam Kỳ" ???
Như Quý vị đã biết; để
sát hại cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm ngày 2/1/1963... Mỹ đã
phải huy động toàn lực;
28.
29.
a) Bật đèn xanh,
bao che cho bọn đạo tặc khoác áo "Thầy chùa" Thích Trí Quang +++
khuấy động về mặt Tôn giáo,
30.
b) "Giật dây"
đám chính khách salon và thành phần thứ ba gây nhiễu loạn chính trị, chống
chính phủ Diệm "đàn áp tôn giáo" (sic)
32.
!
33.
34.
=>
Nếu ông Diệm "không vì tiết kiệm xương máu" mà ra tay đánh trả, hoặc
chủ ý thoát nạn chờ thời...thì ông đã không bị chết thảm (?)
35.
36.
Ấy vậy mà "Huỳnh Công Tấn ... chỉ cần
127 "lính tập Công giáo", đã vây bắt được Nguyễn Trung Trực tại
đảo Phú Quốc...". Phải
chăng ông Diệu muốn nóiHuỳnh Công Tấn (người Công giáo (?) là
một tướng tài giỏi??? (một
mình y đã giết được
hai nhà cách mạng kháng chiến
"nổi
tiếng"
tại
Nam Kỳ)
37.
38.
2) Có thật "Huỳnh Công Tấn là
một người Công giáo"
???
39.
40.
TK tôi tìm kiếm, lục
lọi, tìm hiểu xem "Huỳnh Công Tấn" là con người thế
nào, thân thế ra sao... Nhưng trong các tài liệu dưới đây, không có
chỗ nào nói "Tấn là người Công giáo" cả;
41.
Lãnh Binh Tấn (1837 –1874) tên thật Huỳnh Tấn hay Huỳnh Văn
Tấn, còn gọi là Huỳnh Công Tấn; là một cộng sự đắc lực của thực ...
|
43.
Chương 13: Huỳnh Công Tấn và “cậu hai Miêng”: Cây đắng sanh
trái ngọt?, Những Phú Hộ Lừng Danh Nam Kỳ, Tác giả Hứa Hoành, Tiểu ...
|
45.
47.
48.
.... mà chỉ có
Sáchhiếm của Trần Quang Diệu....(híc híc híc) ... với những bài viết của
"đám trí thức nửa mùa" (nửa người, nửa ngợm, nửa đười ươi)...những kẻ chuyên bịa đặt, xuyên tạc, viết bố
láo để vu cáo, đổ tội cho "Người Công giáo"... hầu lôi kéo những
người nhẹ dạ, cả tin vào phe cánh,... tiếp tay cho csvn trong mưu đồ
triệt hạ GHCG tại VN...?
49.
50.
Thiết
nghĩ, nhóm người của ông Diệu đang làm những việc không tưởng "Dã tràng xe cát biển Đông,
bọ hung vo cục thì trông nỗi gì"!
51.
Hễ những kẻ nào tiếp tay cho Pháp, hoặc cùng Pháp đánh VC,
là chúng dán ngay cho cái nhãn hiệu ... "Công Giáo" (?) Híc hic híc
52.
Không
biết vua Tự Đức và các ông Phan Thanh Giản, Lâm Duy Hiệp có phải là "Người Công Giáo"
hay không, mà lại ký hoà ước (Nhâm Tuất 1862) giao 3 tỉnh Biên Hoà, Gia Định,
Định Tường ... cho Pháp nhỉ???
53.
54.
Hẳn đọc những gì
Sáchhiếm, Giaođiểm viết,... chắc là các sử gia như các ông; Trần Gia Phụng, Vũ
Ngự Chiêu, Minh Võ, Nguyễn Văn Lục... cũng phải phì cười đến.... "xì
hơi"?
55.
56.
Trân trọng
57.
Phạm Trung Kiên
Phản
Hồi Đến Con Chiên Phạm Trung Kiên Về Những Tội Ác Của Những Giáo Giặc
Ngoại Bang và Những Người "Công Giáo" Việt Nam Đối Với Tổ
Quốc Và Đồng Bào.
Hai ngày cuối tuần có dịp phải đi hơi xa với lũ cháu. Khi về, tắm
rửa, ăn uống đâu đó thì ngồi vào bàn và mở hộp thư ra thử xem có điều gì liên
quan mà mình nghĩ là cần phải phản hồi chăng (?).
À đây! - Trong một chuỗi điện thư, có con chiên “Công giáo” Phạm
Trung Kiên? Thật là chán, nhưng nếu làm ngơ, bỏ qua thì không được. Đồng thời,
nó cũng toát ra ý hướng: Tốt! Vì đó là một trong những cơ hội:
Này con
chiên Phạm Trung Kiên!
Tại chuỗi điện thư, khởi đầu là bài
biên soạn của tác giả Bảy Hiền nói về người Anh Hùng Dân Tộc Trương Công Định
đã bị bọn Việt gian theo giặc giết chết. Nhằm chia sẻ tiếp theo nội dung biên
soạn của tác giả Bảy Hiền, tôi chuyển thêm một bài biên khảo có liên quan đến
Chủ đề, mà tác giả là một nhân vật + với những nội dung như thế này:
“Nhân đấy, khi đề cập đến người Anh Hùng Dân
Tộc Trương Công Định, tôi, Trần Quang Diệu cũng xin chuyển tiếp
bài biên khảo sau đây của tác giả Charlie Nguyễn Bùi Văn Chấn (Ông
Chấn là cựu Chủng sinh thuộc Giáo hoàng Chủng viện Bùi Chu - Phát
Diệm kim Thiếu tá Thẩm phán Tòa án Quân sự VNCH) nói
về người "Công giáo" Huỳnh Công Tấn là kẻ đã phục kích
(bao vây, bắn tỉa, đánh úp, xáp lá cà,... đều cùng vào một dạng của một trận
đánh - nhấn mạnh thêm!) giết chết Trương Định tại Gò Công
và; chúng kéo nhau cùng một bọn Việt gian vong nô ra đảo
Phú Quốc bao vây bắt hành quyết luôn người Anh Hùng Nguyễn Trung Trực
(Mà, với bọn xâm lăng, tính luôn bọn giáo giặc ngoại bang thì khỏi nói, còn
lại, hầu như toàn là lũ Việt gian theo đạo “Công giáo”, gồm Chủng sinh lẫn tân
tòng - nhấn mạnh thêm):
- "Huỳnh
Công Tấn là một người Công giáo trong hàng
ngũ nghĩa quân của Trương Công Định từ 1861. Ngày 20-8-1864, Tấn phản
bội, bất thần phục kích giết chết Trương Định tại Gò Công. Ngày 19-9-1868,
Huỳnh Công Tấn cùng với 127 lính tập Công giáo vây bắt Nguyễn Trung Trực
tại đảo Phú Quốc. Như vậy, riêng một mình y đã sát hại được hai nhà cách
mạng kháng chiến nổi tiếng tại Nam Kỳ. Y được Pháp trao tặng Bắc Đẩu Bội
Tinh cho hai chiến công lớn này! "
= một bài mà khởi đầu là những nội dung như thế này:
"Nếu lấy năm 1533 làm cái mốc đầu tiên về sự có mặt của đạo
Công giáo trên đất nước Việt Nam thì tới nay (2003), Giáo hội Công giáo Việt
Nam đã có 470 năm lịch sử. Trong chiều dài thời gian gần 5 thế kỷ có khoảng hơn
bốn thập niên trong nửa cuối thế kỷ 19 (1852-1884) là thời gian thăng trầm,
phức tạp và ô nhục nhất trong giáo sử Công giáo Việt Nam. Đó chính là thời gian
các giáo sĩ trong Hội Thừa Sai Paris và khoảng 600,000 giáo dân đã tích cực
giúp cho thực dân Pháp hoàn thành dễ dàng cuộc xâm chiếm Việt Nam và mau chóng
bình định lãnh thổ để áp đặt nền thống trị lên dân tộc Việt Nam trong hơn 80
năm.
Những gì đã xảy ra trước và trong quá trình xâm lược Việt Nam
của thực dân Pháp đã khẳng định rằng: các giáo sĩ trong Hội Thừa Sai Paris đã
chủ động tạo ra cớ cho cuộc can thiệp võ trang của Pháp vào Việt Nam. Sử gia
Pháp Georges Coulet đã viết trong tác phẩm của ông Cultes et Religions
de l’Indochine Annamite (Saigon, p. 99) như sau: “ Thiên
Chúa giáo đã mở cửa cho quân đội Pháp và đã là nguyên nhân trực tiếp của cuộc
xâm lược đất nước này”.
Suốt thời gian giặc Pháp đô hộ, danh dự của tổ
quốc Việt Nam đã bị xỉ nhục nặng nề, sinh mạng và tài sản của nhân dân bị
quân địch xâm phạm nghiêm trọng. Đây là những vết hằn lịch sử khó có thể xóa mờ
trong ký ức của mọi người Việt yêu nước. Lịch sử mất nước của dân tộc Việt Nam
vào cuối thế kỷ 19 gắn liền với sự có mặt của Hội Thừa Sai Paris - một công cụ
mở rộng nước Chúa của Vatican, đồng thời cũng là một công cụ mở rộng thuộc địa
của thực dân Pháp. Sát cánh với Hội Thừa Sai Paris là Giáo Hội Công Giáo Việt
Nam vào thời điểm đó đã hiện nguyên hình là một tập đoàn Việt gian bán nước
theo giặc, trắng trợn phản bội Tổ Quốc.
Việc dựng lại một cách chân xác giai đoạn thăng trầm của lịch sử
mất nước ô nhục đó không phải là chuyện dễ dàng vì các sử liệu về giáo sử Công
giáo Việt Nam còn lưu lại ở Việt Nam rất hiếm hoi. Nhưng một sự may mắn đã đến
với chúng ta là sử gia Patrick J.N. Tuck, người Ấn Độ, giáo sư sử học tại đại
học Liverpool (Anh Quốc) đã bỏ ra nhiều công sức sưu tầm các tư liệu liên quan
đến các hoạt động của các giáo sĩ thừa sai Pháp và các chính sách của đế quốc
tại Việt Nam từ 1857 đến 1914.
Tất cả các tài liệu lịch sử quí giá này đều là những tài liệu do
chính văn khố của Hội Thừa Sai Paris cung cấp. Đây là một món quà tinh thần quí
giá cho những ai hằng thao thức tìm hiểu giáo sử Công giáo Việt Nam. Bộ sưu tập
tài liệu về Hội Thừa Sai Paris của sử gia Patrick J.N. Tuck được viết bằng Anh
ngữ dưới tựa đề “French Catholic Missionaries and the Politics of
Imperialism in Vietnam 1857-1914” do Liverpool University Press xuất bản
tại Anh Quốc năm 1987. Bản dịch Việt ngữ do UBĐKCGYNVN/TP.HCM thực hiện và phổ
biến năm 1989 dưới tựa đề: “Thừa Sai Công Giáo Pháp và các chính sách
của dế quốc tại Việt Nam 1857-1914”.
(...)
Tội Ác bán nước theo giặc
của Giáo hội Công giáo Việt Nam trong nửa cuối thế kỷ 19.
Vào nửa cuối thế kỷ 19, có khoảng 600,000
người Việt Nam đã mù quáng đi theo tôn giáo lạ mang tính chất vong bản. Họ đã
dễ dàng lìa bỏ nếp sống văn hóa truyền thống của dân tộc. Tuy nhiên, trước khi
Pháp đổ quân xâm chiếm Việt Nam, những người Công giáo được coi là những công
dân lầm lạc vì nhẹ dạ và ngu dốt nên Triều Đình và nhân dân Việt Nam không nỡ
ra tay tiêu diệt họ. Nhưng kể từ khi Pháp chiếm Đà Nẵng năm 1856, đa số giáo
dân Công giáo đã trắng trợn ra mặt theo giặc và phản bội Tổ Quốc.
Hiện tượng đầu tiên là
nhiều ngàn giáo dân rời bỏ Bắc Kỳ kéo vào Đà Nẵng xin đi lính tập cho Pháp. Đô
đốc Rigault de Genouilly tiếp nhận họ tại Sơn Trà và huấn luyện họ tại đây. Sau
đó, Genouilly đã tuyển chọn 6000 người trong số họ để nhập vào liên quân
Pháp-Tây Ba Nha đánh chiếm Saigon.
Trong công cuộc xâm chiếm và bình định Việt Nam, thực dân Pháp
đã được giáo hội Công giáo Việt Nam hỗ trợ tích cực mọi mặt. Trong số các tín
đồ Việt gian, có những nhân vật rất nổi tiếng sau đây :
Tổng đốc Phương
1. Tổng Đốc
Phương, tức Đỗ hữu Phương, sinh năm 1844 tại Saigon, nguyên chủng sinh tại
Penang, thông thạo tiếng Pháp, được Pháp chọn tham gia phái đoàn của Pháp trong
cuộc thương lượng với triều đình Huế năm 1868. Sau đó Phương tham gia các cuộc
tảo thanh chống Nguyễn Trung Trực tại Rạch Giá. Năm 1872, Phương được Pháp
thăng chức tổng đốc Saigon.
Trần bá Lộc.
2. Trần Bá Lộc, sinh năm 1834 trong một gia đình
Công giáo tại Long Xuyên. Lộc xin vào đoàn quân Công giáo do Charner tổ chức
chuyên việc lùng quét các nhóm quân kháng chiến. Sau khi tham gia nhiều trận
đánh tái chiếm Rạch Giá, Lộc được Pháp phong chức tổng đốc Rạch Giá. Y là tên
đại Việt gian được Pháp tín nhiệm trao nhiệm vụ triệt hạ phong trào kháng chiến
từ Quảng Nam đến Phan Thiết. Với nhiệm vụ này, Trần Bá Lộc đã giết hại khoảng
25 ngàn người Việt yêu nước.
3. Trần Tử Ca, nguyên là một người bên lương, sinh
trưởng tại Gò Vấp. Lúc đầu y đi theo kháng chiến, nhưng sau đó y theo đạo, rời
bỏ hàng ngũ kháng chiến theo giặc chống lại Tổ Quốc. Năm 1862, Ca được Pháp bổ
làm tri huyện Hóc Môn. Năm 1865, y đi theo quân đội Pháp càn quét các tỉnh miền
Tây. Đêm 9-2-1885, Ca bị nghĩa quân giết chết .
4. Huỳnh Công Tấn là một người Công giáo
trong hàng ngũ nghĩa quân của Trương Công Định từ 1861. Ngày 20-8-1864, Tấn
phản bội, bất thần phục kích giết chết Trương Định tại Gò Công. Ngày 19-9-1868,
Huỳnh Công Tấn cùng với 127 lính tập Công giáo vây bắt Nguyễn Trung Trực tại
đảo Phú Quốc. Như vậy, riêng một mình y đã sát hại được hai nhà cách mạng kháng
chiến nổi tiếng tại Nam Kỳ. Y được Pháp trao tặng Bắc Đẩu Bội Tinh cho hai
chiến công lớn này !
5. Tạ Văn Phụng, tức Phêrô Lê Duy Phụng, nguyên
chủng sinh tại Penang, lấy danh nghĩa là con cháu nhà Lê dấy binh khởi nghĩa
tại Bắc Kỳ chống triều đình Huế năm 1858. Tạ Văn Phụng nhờ các giáo sĩ liên lạc
với chính phủ Pháp để xin giúp đỡ. Napoleon III đồng ý, và cử tên gián điệp
Duval sang Việt Nam giúp Phụng với mục đích biến Bắc Kỳ thành một xứ Công giáo
với một chính quyền Công giáo. Duval đi Macao mua vũ khí và giúp Phụng thành
lập những đoàn quân gồm đa số là giáo dân. Trong các tháng 6 và 7-1863, Phụng
khởi quân đánh chiếm một vùng rộng lớn ở đồng bằng Bắc Bộ gồn 3 tỉnh Quảng Yên,
Hải Dương và Nam Định.Triều đình Huế cử Nguyễn Tri Phương đem quân ra Bắc dẹp
loạn. Tạ Văn Phụng bị bắt đem về Huế xử tử.
Vài điều trình bày trên đây chỉ là bản phác họa một cách trung
thực những giai đoạn của Việt Nam vong quốc sử hồi nửa cuối thế kỷ 19. Đây là
điều cần thiết để nhắc nhở toàn dân Việt Nam phải luôn luôn đề cao cảnh
giác phòng ngừa những thế lực ngoại bang cùng tay sai bản địa lấy danh nghĩa
tôn giáo để xâm lăng chủ quyền và phá hoại nền văn hóa cổ truyền của dân tộc.
Riêng đối với Vatican và Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, hai tổ
chức này không thể phủ nhận trách nhiệm trong việc họ đã cấu kết với thực dân
Pháp chống lại nước Việt Nam gần một thế kỷ (từ giữa tk 19 dến gần giữa tk 20).
Gần đây, Giáo Hoàng đã thú nhận những tội lỗi của Vatican đối với nhiều quốc
gia và dân tộc trên thế giới. Còn bao giờ thì Giáo hội Công giáo Việt Nam mới
lên tiếng tạ tội với dân tộc về những lỗi lầm trong quá khứ đối với Tổ Quốc
?" >
Dẫn ra như thế, làm tôi nhớ và lục ra một nơi khác có những nội
dung như thế này:
Việt
gian Tạ Văn Phụng:
“Tự Đức muốn đàm phán trên thế mạnh để khỏi bị kẻ thù áp đặt, như
thực tế đã bao lần chứng minh. Ý định ấy đáng ca ngợi và làm vinh dự cho nhà
vua; nhưng không may cơ cấu chế độ quân chủ chuyên chế đang đè nặng lên đất
nước Việt Nam lúc này không thuận lợi chút nào cho trách nhiệm của nhà vua. Vua
Tự Đức luôn luôn nghi ngờ lòng thành thật của người Pháp nên không tỏ ra có
thái độ hòa giải. Trước cuộc nổi loạn của Tạ Văn Phụng ở Bắc Kỳ, được các giáo
sĩ Tây Ban Nha ủng hộ, vua càng trở nên cứng cỏi trong thái độ của mình, xuống
chỉ cho các quan hàng tỉnh phải kiểm soát chặt chẽ những người theo đạo Kitô
(vì nó luôn mang tâm cảnh phi dân tộc, mà hễ đã phi dân tộc thì nó sẽ phản dân
tộc, vì bởi chúng tự nguyện làm “thần dân của thành Rome - ngoại bang Vatican
La mã giáo – tqd): đàn ông, đàn bà, ông già, tất cả phải khắc lên da thịt của
mình những dấu hiệu riêng cho phép người ngoài phân biệt người Kitô giáo với
tất cả những người dân khác. Những làng không công giáo phải được giám sát chặt
chẽ để tránh sự “lây lan” do những cuộc tiếp xúc xảo trá. Các giáo sĩ (ngoại
quốc? – tqd), cũng như linh mục (bản địa VN? – tqd), phải bị truy nã quyết
liệt, bị bắt giam, và quản chế nghiêm ngặt.”
(Tiến sĩ Nguyễn Xuân Thọ, “Bước Mở Đầu Của Sự Thiết Lập Hệ Thống Thuộc Địa Pháp
Ở Việt Nam – 1858-1897” – 1995, trang 61).
Việt gian Paulus Thy:
“Là một cựu phiên dịch của lãnh sự quán Pháp tại Hải Phòng,
“hàm tri huyện”, tên Paulus Thy này cầm đầu một nhóm 32 giáo dân Bắc Kỳ cùng
ông ta. Ngày 22.2.1879, Paulus Thy thảo ra một bản thỉnh cầu , xin ‘sự bảo hộ
của nước Pháp’, bằng cách “giải phóng Bắc Kỳ” khỏi “ách” của chính phủ triều
Nguyễn. Sau bức thư thỉnh nguyện này, sẽ là một âm mưu tiếp theo, nhằm thiết
lập một nền “Cộng Hòa Bắc kỳ”. Một cuộc nổi dậy đã được sắp đặt, nhằm đánh vào
thành Nam Định, và chẳng ai ngờ rằng những cuộc “nổi dậy đó” đều được các giáo
sĩ Pháp, Tây Ban Nha, và chánh quyền Pháp xúi giục, để lấy đó làm duyên cớ
‘giải phóng Bắc kỳ’, khi thời cơ đến.
Lẫn trốn vô Nam kỳ, ở tại Thủ Dầu Một, ngày 8.12.1881, Paulus Thy,
lại một lần nữa, đưa một thỉnh nguyện thư cho Le Myre de Vilers, cầu xin Pháp
can thiệp… để ‘tuyên bố Bắc kỳ độc lập, dưới sự che chở của một liên minh vĩnh
cửu với nước cộng hòa Pháp…” (sđd, tr 242).”
Vậy mà
con chiên Phạm Trung Kiên không chịu chú ý, không chịu đọc toàn bài để
nói đại là:
“Ông Trần Quang Diệu viết;..."Huỳnh Công Tấn là một người Công
giáo trong hàng ngũ nghĩa quân của Trương Công Định từ 1861. Ngày
20-8-1864, Tấn phản bội, bất thần phục kích giết chết Trương Định tại Gò
Công. Ngày 19-9-1868, Huỳnh Công Tấn
cùng với 127 lính tập Công giáo vây bắt Nguyễn Trung Trực tại đảo Phú
Quốc. Như vậy, riêng một mình
y đã sát hại được hai nhà cách mạng kháng chiến nổi tiếng tại Nam Kỳ. Y
được Pháp trao tặng Bắc Đẩu Bội Tinh cho hai chiến công lớn này! " => (TK tô
đậm màu vàng)” ?
Khỏi cần thắc mắc về thời gian trên 10 năm qua, ngoài con chiên
Phạm Trung Kiên, không ai làm được chuyện bác bỏ được những nội dung mà
ông cựu Chủng sinh thuộc Giáo hoàng Chủng viện Bùi Chu - Phát
Diệm kim Thiếu tá Thẩm phán Tòa án Quân sự VNCH Charie Nguyễn Bùi Văn
Chấn đã biên khảo với những nội dung lên án, tố cáo bọn thừa sai ngoại bang và
những Việt gian theo đạo Cato trong việc tiếp tay đắc lực cho giặc Pháp (mà ông
Wissai… gần đây đã bực bội mắng bọn giặc ngoại bang đó là “chỉ làm phách chó
được với An Nam mà thôi” chứ với Đức thì cả hai lần đều thất bại) đánh
chiếm và nghiền nát, dìm chết chủ quyền độc lập của quê hương VN trên bản đồ
thế giới.
Con chiên PTK nên nhớ là lịch sử trong thời kỳ Pháp đánh chiếm
Việt Nam thì chính thủ lĩnh giặc Pháp (Đô Đốc Page) lúc bấy giờ cũng đã phải
công nhận là “không một người Việt Nam nào theo Công giáo lại ngần ngại xin
gia nhập làm lính dưới cờ Pháp”! - http://sachhiem.net/BUIKHA/
BuiKha25b_TVK.php . Ngược lại, cũng lúc bấy giờ, không thể
có một người Phật giáo Việt Nam nào (mà cũng có thể nói là kể cả “đạo thờ ông
bà” – vì không thể đạp đổ bàn thờ gia tiên, dẹp bỏ cúng giỗ) mà lại biến
thành tay sai cho giặc truy giết những Anh Hùng Ái Quốc bao giờ! Điều đó, thế
kỷ 19 khi Pháp xâm lăng Việt Nam, nó chỉ xảy ra bởi bọn phi dân tộc cho nên
phản dân tộc = Cato Lamã giáo gốc Việt mà thôi!
Con chiên PTK không phăng ra được “mối nhợ keo sơn” cha con Huỳnh
Công Tấn là “Công giáo” như thế nào, nhưng tôi hiểu là cha con Huỳnh Công Tấn
rất là Cato Roma:
Việt
gian Trần Bá Lộc và cha con Huỳnh Công Tấn.
(…)
- “Năm 1859,
khi Pháp tấn
công Sài Gòn, Trần Bá Lộc còn đang chèo ghe từ nơi ở
đến Mỹ Tho bán
cá cho quân đội Pháp. Sau nhờ quen biết giáo sĩ Marc, ông hàng Pháp (1861), rồi ba tháng
sau làm cai mã tà đóng tại Chợ Gạo (Mỹ Tho).”
(…)
· Tháng 2 năm 1872, nghĩa quân Cầu Vòng
do Đốc binh Lê Cẩn và Nguyễn Giao chỉ huy đã phục kích giết chết Tham
biện Vĩnh Long là
Salicetti. Trần Bá Lộc liền xua quân đến tàn sát dân làng và thiêu rụi nhà cửa
của họ, vì "tội" chứa chấp "bọn phiến loạn"[7].
· Đàn áp cuộc khởi nghĩa của người Miên (Khmer) ở Trà
Béc (vùng biên giới Việt-Campuchia) năm 1883.
- “Con trai Huỳnh Công Tấn
là Huỳnh Công Miên, tức Hai Miên,
ông này du học bên Pháp, về xứ lúc đầu theo Phủ Trần Bá Lộc, đánh dẹp phe "Văn Thân" ngoài
Thuận Khánh. Sau này nghĩ sao không rõ mà không nhận chức gì, chỉ ngao
du ăn xài theo bực công tử. Đi khắp Lục tỉnh, đi đến đâu, ưa đánh lộn bênh vực
người mắc nạn, hết tiền vô quan Tây "mượn
xài". Quan nể tình cũ ông cha, hằng trợ giúp và dầu phạm pháp cũng không
bắt tội. Khi chết được đời nhắc tên trong "vè Cậu Hai Miêng" với danh
từ ngộ nghĩnh là "lưu linh miễn tử" [12]”:
Việt
gian Huỳnh Công Tấn ra đảo Phú Quốc bao vây bắt Nguyễn Trung Trực:
- “Nguyên
quán gốc Nguyễn Trung Trực ở xóm Lưới, thôn Vĩnh Hội, tổng Trung An, huyện Phù
Cát, trấn Bình Định (ngày nay là thôn Vĩnh Hội, xã Cát Hải, huyện Phù Cát, tỉnh
Bình Định). Ông nội là Nguyễn Văn Đạo, cha là Nguyễn Văn Phụng (hoặc Nguyễn Cao
Thăng), mẹ là bà Lê Kim Hồng.”
(…)
- “Tháng 9 năm 1868, chiếc tàu Groeland
chở Lãnh Binh Tấn (tức Huỳnh Văn Tấn, còn được gọi Huỳnh Công
Tấn, trước có quen biết ông Trực vì cùng theo Trương Định kháng Pháp. Sau này,
Tấn trở thành cộng sự cho Pháp), cùng 150 lính ở Gò Công đến đảo Phú Quốc để
bao vây và truy đuổi ông Trực.”
Tôi viết dẫn là như vậy đó. Con chiên PTK nên truy cập và
theo dõi cho “có cái đầu một chút” khi tên Việt gian Cato Trần Bá Lộc và hai
cha con Huỳnh Công Tấn đã tiêu diệt những nghĩa quân Việt Nam ra sao chứ viết
như thế này là ngớ ngẩn:
“1) Viết như trên, TK tôi không biết ông Diêu...
"muốn" ca ngợi, tôn vinh ông Trương Công Định là
"Anh Hùng Dân Tộc", hay ông đang "chế diễu, mỉa
mai" khi đề cao Huỳnh Công Tấn ..."riêng một mình
y đã sát hại được hai nhà cách mạng
kháng chiến nổi tiếng tại Nam Kỳ" ???” ?
Có ai điên ở đâu khi được giặc ban cho làm đến chức “Lãnh binh” mà
khi xung trận lại chỉ đi “riêng một mình” chứ hả?
Phải
chăng rõ ràng là tác giả Charlie Nguyễn đã nhấn mạnh đến “riêng” con người và
cái chức “Lãnh binh” nơi Việt gian Huỳnh Công Tấn đã lập được những “chiến công
lớn” như thế cho nên giặc mới ban thưởng “Bắc Đẩu Bội Tinh” (y như Việt gian
Linh mục Trần Lục!) và ra lịnh cho xây tượng đài “Lãnh binh Huỳng Công Tấn”
(nhưng vào giữa thế kỷ trước thì bị đồng bào yêu nước nổi lên đập phá tan tành)
?
Con chiên PTK từ chuyện Việt gian hai
cha con Huỳnh Công Tấn “xọ” sang chuyện Ngô Đình Diệm:
- “Như Quý vị đã
biết; để sát hại cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm ngày
2/1/1963... Mỹ đã phải huy động toàn lực;” ?
Trần
Quang Diệu:
Tam đại Việt gian Ngô Đình Diệm được Mỹ đưa trở lại Việt Nam năm
1954 (sau khi quân viễn chinh xâm lăng Pháp đầu hàng với người Việt Nam tại
chiến trường Điện Biên Phủ…) nhưng rồi họ có “huy động toàn lực” để đánh
ngã (“đả đảo”) và “sát hại” Diệm ra sao thì đó là quyền lực của Mỹ siêu cường,
của Mỹ “đồng minh” bao thầu mọi phương tiện chiến tranh cho tam đại Việt gian
Ngô Đình Diệm?
Đó là “thằng nhãi mà họ có được” ở VN, nhưng đến khi họ thấy không
còn cần thiết nữa thì họ “dứt” chứ sao? Và rồi có “toàn lực” hay không là do
quân đội VNCH lúc bấy giờ, mà lực lượng nòng cốt để vây hãm Dinh Gia Long và
Thành Cộng Hòa là Sư đoàn 5 Bộ binh do Đại Tá (cũng con chiên) Nguyễn Văn Thiệu
(sau này là Tổng Thống thời “Đệ Nhị VNCH”) kéo vào Thủ đô từ vùng Đông
Bắc Sài gòn và khai hỏa vào lúc 1giờ30 ngày 1.11.1963. Làm cho toàn thể đồng bào
đều vui mừng hớn hở. Họ tràn ra đường giăng biểu ngữ “Hoan Nghênh Cách
Mạng Thành Công”, đòi “Trừng Trị Ngô Đình Diệm”? Đó là sự thật!
Phạm
Trung Kiên viết:
“a) Bật đèn
xanh, bao che cho bọn đạo tặc khoác áo "Thầy chùa" Thích Trí
Quang +++ khuấy động về mặt Tôn giáo, “ ?
Trần Quang Diệu:
Đúng là rinh chuyện
nọ xọ chuyện kia, kèm theo là thói ngôn ngữ côn đồ vô giáo dục!?
Không có “bọn
đạo tặc khoác áo "Thầy chùa" Thích Trí Quang +++
khuấy động về mặt Tôn giáo, “ gì vào lúc ấy cả, mà, tại vì
anh em con nhà họ Ngô Đình tam đại Việt gian đã như một số những biểu ngữ thời
cuộc lúc bấy giờ: “Cẩn ngu, Nhu ác, Diệm khùng, Thục điên” cho nên
mới sinh ra cớ sự bằng đầu rơi máu đổ cho Phật tử xứ Thần Kinh ở đài phát thanh
Thừa Thiên - Huế đêm 8.5.1963; bằng cuộc tấn công tàn bạo vào Chùa Xá Lợi giữa
đêm 20.8.1963 và; bắt nhốt hết bộ phận đầu não của Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật
Giáo cho đến sau khi Diệm bị đánh ngã thì họ mới được giải thoát ra bên ngoài
xã hội từ nhà giam của Diệm!?
Phạm Trung Kiên viết:
“b) "Giật dây"
đám chính khách salon và thành phần thứ ba gây nhiễu loạn chính trị, chống
chính phủ Diệm "đàn áp tôn giáo" (sic)” ?
Trần Quang Diệu:
Anh em Diệm đàn áp
tôn giáo ngoài Cato Roma mà là “sic” hả? Anh em Diệm cho tay
chân đàn áp tôn giáo ngoài Cato Roma như Phật giáo, Cao Đài, Hòa Hảo là chuyện
rõ ràng, không thể bưng bít, không thể chạy được cái tội “ngu nghiện đạo” (từ
của ông Giuse Phạm Hữu Tạo ở Mỹ) Catô cách điên khùng đó! Mà, sau 3.30 chiều
1.11.1963 ông Diệm đã nói với ông Trung Tướng Trần Văn Đôn là “Tôi tính ngày
hôm nay tuyên bố cải tổ chính phủ” (nghĩa là sẽ không có đàn áp Phật giáo nữa)
nhưng ông Đôn lập tức bác bỏ: “Thưa Cụ muộn quá rồi!”.
Phạm Trung Kiên viết:
“c) bỏ tiền mua chuộc những
tên "tướng lãnh cao cấp tham danh hám lợi"
đứng ra làm đảo chánh...” ?
Trần Quang Diệu:
Như trên đã nói,
lực lượng nòng cốt nhắm đến việc đánh ngã chế độ nhà Ngô tam đại Việt gian là
lính VNCH Sư đoàn 5 Bộ binh do con chiên Nguyễn Văn Thiệu làm Tư lệnh. Và ông
Thiệu là Tổng Thống VNCH từ năm 1967 đến 1975. Ngày 1.11. trở thành ngày Quốc
Khánh thời Đệ Nhị VNCH. Đó là sự thật!
Phạm Trung Kiên viết:
“Nếu ông Diệm
"không vì tiết kiệm xương máu" mà ra tay đánh trả, hoặc chủ ý thoát
nạn chờ thời...thì ông đã không bị chết thảm (?)” ?
Trần Quang Diệu
Với câu
viết rẻ giá đến như thế của con chiên PTK mới thật làm cho người ta phải dùng
ký hiệu “sic” là mới đúng! Tại sao?
Với sự
“chuẩn bị từ bấy lâu nay” (từ năm 1960, nghĩa là từ sau 11.11.1960 anh Diệm lừa
gạt lính Nhảy Dù về việc cải tổ chính phủ…) “đã đến lúc phải thi hành” (lời của
ông Trung Tướng Trần Văn Đôn). Như thế, lúc đó, ngoài Sư đoàn 5 Thủy Quân Lục
Chiến còn có lính và Thiết giáp của Bộ Tư Lệnh Quân đoàn 3; Phi cơ từ Phi
trường Tân Sơn Nhất đã bay lên bắn yểm trợ cho bộ binh; Chiến đoàn Thiết giáp ở
Trung tâm Vạn Kiếp Vũng Tàu đã kịp vào tới nơi; từ Phi trường Phan Rang gọi cho
HĐTL là nếu cần chiến đấu cơ vào tiếp ứng thì họ sẽ cho cất cánh; lính ở Trung
tâm Huấn luyện Quang Trung thì đã “dứt” Tư lệnh Hải quân Hồ Tấn Quyền v.v… Dưới
Mỹ Tho thì Quyền Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH Trần Văn Đôn đã lịnh cho Đại Tá
Bùi Đình Đạm phải giao Sư đoàn 7 qua cho Đại Tá Nguyễn Hữu Có, và ông Có đã ra
lịnh kéo hết tàu thuyền từ phía Bên Tre sang bên Mỹ Tho, làm cho lính Sư đoàn 9
của Đại Tá Bùi Dinh không thể vượt qua sông kéo lên Sài gòn cứu giá
(như Trần Thiện Khiêm ngày 11.11.1960) v.v… thì làm gì anh em Diệm lúc đó có
thể cựa quậy chứ hả con chiên Phạm Trung Kiên?
Đây là câu viết láo xược và nhảm
nhí: “Nếu ông Diệm "không vì tiết kiệm xương máu" mà ra tay
đánh trả, hoặc chủ ý thoát nạn chờ thời...” ?
Hai ông
Diệm Nhu ra lệnh cho lính bảo vệ Dinh Gia Long xả súng làm cho Đại Úy Thiết
Giáp Bùi Ngươn Ngãi chết ngay trong đợt tấn công đầu tiên tại Dinh Gia Long chứ
Diệm “tiết kiệm xương máu” gì? Trong bối cảnh đó, nếu Tổng Tư Lệnh Diệm không
cho phép thì thằng nào dám đưa đạn lên nòng và giơ súng bóp cò? Diệm Nhu cố sức
gọi điện thoại tìm gặp những nhân vật mà ông cho là trung thành (để hy vọng họ
sẽ làm chuyện cứu giá như 11.11.1960) nhưng không gặp được ai hết chứ Diệm Nhu
“tiết kiệm xương máu” gì? Đặc biệt, sau đây mới là mưu toan độc ác, gói trọn
cung cách ô nhục của anh em Diệm chứ con chiên Phạm Trung Kiên ngày nay đừng có
mà bày đặt suy đoán tào lao rằng Diệm “tiết kiệm xương máu” (“Treo cổ nó trên
đường Công Lý” chứ ở đó mà “tiết kiệm xương máu”):
“Ông Nhu đã tỏ vẻ coi thường khi nhận được báo cáo đầu tiên về
những đoàn quân tiến về dinh Tổng Thống. Ông tin rằng việc tấn công nầy nằm
trong chiến lược của ông nhằm phát giác và tiêu diệt những người đối nghịch của
ông.
Theo kế hoạch của ông Nhu thì vài đơn vị trung thành của ông sẽ
chiếm vài nơi trọng yếu tại thủ đô. Lúc đó ông và ông Diệm sẽ bay ra Vũng Tàu.
Chỉ vài ngày sau, tình trạng lộn xộn và không luật lệ đó sẽ mở ngõ cho kẻ thù
của chính quyền vào. Các đơn vị trung thành với chế độ đánh chiếm lại. Lúc đó
quân phản loạn của Mỹ sẽ bị sập bẫy chết trong đô thị nầy (Sài Gòn – tqd).
Một việc không may cho anh em nhà Ngô là ông Nhu đã nhờ Tướng Tôn
Thất Đính thực hiện kế hoạch nầy. Trước đó (cũng trong chiều ngày 1.11.1963 -
tqd) ông Nhu có điện thoại cho ông Đính nhưng không gặp. Sau đó ông ta có liên
lạc với vài tướng lãnh mà ông nghĩ trung thành với chế độ, nhưng cũng không gặp
ai cả. Lúc đó, ông mới biết là đảo chánh có thật” - (Trần Văn Đôn, Việt Nam Nhân Chứng, Xuân Thu, USA, 1989,
tr 270).
Trần Quang Diệu