(Xin cám ơn Tổng Thống D. Trump đã khởi đầu cuộc trừng phạt Tàu cộng bằng kinh tế và thương mãi... Các diễn biến nầy chứng minh những gì tôi đã viết ra cách đây gần 10 năm. Bài dưới đây trích trong ‘Nỗi Buồn Chưa Dứt’, xuất bản tại Hoa Kỳ năm 2010, ISBN 978-1-62407-218-5)
*****
Thế giới đang lo ngại trước âm mưu bành trướng kinh tế cũng như quân sự của Tàu cộng, nhưng theo thiển ý của tôi, kinh tế và quân sự của Tàu cộng ở thời điểm nầy (2010) nhìn bên ngoài tuy đáng ngại cho tương lai trật tự cũng như hoà bình thế giới, nhưng đó chỉ là những thực tế thiếu căn bản và giả tạo, vượt ngoài khả năng, thì, Tàu cộng có thể xem như một sức mạnh ảo. Tiềm lực đỏ của khối cộng hiện nay, điển hình là Tàu, chỉ là một trái bong bóng đã được thổi phồng lên nhằm trấp áp chư hầu đồng thời hù dọa thế giới. Nghiên cứu kỹ về khả năng kinh tế cũng như quân sự, tôi nghĩ rằng Tàu cộng cũng chỉ là một con hổ giấy, dễ dàng cháy thành tro trong một sớm một chiều khi đối đầu trước sức tấn công đồng loạt của khối tự do về hai mặt kinh tế lẫn quân sự. Do đó có thể hiểu rằng, Tàu cộng đang thật sự lo sợ một cuộc chiến tranh xảy ra khi đối đầu với sức mạnh gấp hàng chục lần. Một điều cần ghi nhận thêm, thế giới đã thấy rõ âm mưu bá quyền của tập đoàn Tàu cộng thì khối tự do nhất quyết phải ra tay nhổ tận gốc chế độ đầy tham vọng nầy hầu tránh cho nhân loại một ‘hậu họa da vàng trong lớp áo màu đỏ’.
Để giải thích thiển ý nầy, thử xét qua tiềm lực quân sự, kinh tế cũng như chính trị để thấy những điểmtử (chết) của Tàu cộng và hình dung được hậu quả khi xảy ra một cuộc chiến thu gọn giữa hai khối tự do và công sản. Sở dĩ tôi dùng chữ thu gọn vì nghĩ rằng, nếu có một cuộc chiến trong tương lai thì các cường quốc Mỹ-Âu sẽ dàn xếp với Nga cũng như Khối Á Rập để chiến tranh có thể xảy ra giữa các cường quốc do Mỹ chủ động với Tàu cộng và Bắc Hàn. Tôi không nghĩ rằng đây là trận chiến thứ III theo như nhiều nhà tiên tri tiết lộ là do cộng sản Nga hoặc khối Á Rập gây nên, mà chỉ là một chiến tranh thu hẹp nhằm tiêu diệt mối họa cho thế giới đồng thời ổn định và đem lại hòa bình cho khu vực Đông Á Châu mà trong đó Nga cũng như khối Á Rập đều có lợi. Từ nhiều năm qua, Mỹ đã chuẩn bị đánh Tàu bằng cách viện cớ can thiệp vào Iran (nguyên tử) cũng như khối Á Rập tại Đông Á (khủng bố) nhằm ngăn chận nguồn tiếp tế nhiên liệu, thì nay Mỹ phải giải quyết càng sớm càng tốt để nhanh chóng dập tắt sự bành trướng của Tàu cộng. Đây là thời điểm thuận lợi để giảm thiểu thiệt hại từ nhân lực đến vật lực. Nếu khối tự do chần chừ kéo dài thêm vài thập niên nữa, có lẽ hổ giấy Trung cộng sẽ thành hổ thật và lúc đó nếu xảy ra chiến tranh thì mười người chết bảy còn ba, chết hai còn một mới ra thái bình. Theo một số nhà phân tích, trong vòng một thập niên nữa nếu Tàu cộng vẫn duy trì được đà phát triển như hiện nay mà Mỹ không đánh gục Tàu trước trong thời điểm nầy, thì Mỹ sẽ mất vị thế cường quốc đứng đầu thế giới.
Trong lúc Tàu cộng đang điên đầu vấn đề biển Đông, tranh chấp quyền lực với Mỹ cũng như các xứ lân bang, đồng thời bị các thuộc địa nổi dậy đòi tự trị thì Tàu cộng sẽ vấp phải những sơ hở chính trị bởi thái độ hách dịch, ngoan cố, phô trương để rồi xảy ra như hành động gây hấn quân sự, thì đây là cơ hội tốt để khối tự do mở màn cho việc nổ súng dứt điểm mối hiểm họa thế giới. Tôi nghĩ rằng, nếu xảy ra chiến tranh với khối Âu-Mỹ trong thời điểm nầy thì Tàu cộng không phải là đối thủ cân xứng trước sức mạnh khổng lồ của khối tự do và cuộc chiến sẽ chấm dứt nhanh chóng khi trái bong bóng cộng sản bị xì hơi. Dưới đây đề nghị xét qua các phương diện quân sự, kinh tế và chính trị của Tàu cộng trong thời điểm nầy để có thể nghĩ rằng Tàu cộng chỉ là một con cọp giấy!
A. Lực lượng quân sự (Quân đội, Vũ khí và Chiến trường):
1. Ngày nay không còn chiến tranh quy ước như thời trước: hai bên dàn trận xáp chiến để chiếm từng ngọn đồi, từng vùng đất. Như vậy cả hai đối thủ không cần một đạo quân đông đảo để sắp hàng ra trận. Như vậy dù một nước có 1 tỷ 4 dân số với hàng trăm triệu quân lính cũng không thể nắm phần quyết định trên các chiến trường. Đó chưa kể đạo quân nầy đang bị cô lập cả bốn phía, ít kinh nghiệm chiến đấu và vũ khí còn kém quá xa so với Tây Phương. Hơn nữa chiến trường Tàu cộng là một cái rọ ngăn chận bởi các xứ tự do chung quanh với một vùng biển hẹp (biển Đông) mà Tây Phương cũng đang có mặt, thì chiến trường trên không, dưới đất hay trong vùng biển nhỏ bé của Thái Bình Dương cũng chỉ là những điểm tập trung cho các vũ khí nguyên tử từ không gian giáng xuống, từ các khu vực quân sự của Nhật Bản, Đại Hàn, Afghanistan, Ấn Độ, Phi luật Tân, Thái Lan và Việt Nam (?) cũng như các loại hỏa tiển tầm xa rót vào từ hải phận quốc tế. Vậy chiến trường của Tàu cộng bị đóng khung trong vòng vây của những đồng minh Á châu lân bang thì cường quốc Âu-Mỹ rảnh tay hoành hành từ trên không trung đến các đại dương từ chiến thuật cho đến tiếp vận. So sánh sức mạnh của hai đối thủ thì Tàu cộng vẫn còn xa gấp cả chục lần với những vũ khí hiện đại của khối Âu-Mỹ. Một số máy bay, tàu ngầm, chiến hạm trang bị nguyên tử của Tàu cộng không đủ khả năng để đối đầu với những máy bay tàng hình ném bom, các chiến cụ nguyên tử vừa mới xuất xưởng cũng như những hàng không mẫu hạm vô địch của hải quân Mỹ đang hướng mũi về lãnh thổ Tàu cộng. Lấy một ví dụ rất tầm thường để chứng minh rằng thông tin tình báo cũng như khả năng thăm dò qua vệ tinh của Tàu cộng còn yếu kém. Đó là trên 20 ngàn hỏa tiễn ‘cruise’ mang đầu đạn nguyên tử đã được khai triển ở các nước láng giềng và các tàu ngầm Ohio Class đã đến sát lãnh hải, nhưng khi Tàu cộng khám phá ra thì các điểm chiến lược trên lãnh thổ Tàu đã nằm trong tầm phóng hỏa tiễn của Mỹ.
2. Chiến thuật thành công ở chiến trường của cộng sản từ trước đến nay là ồ ạt thí quân hoặc xử dụng du kích đánh lén. Pháp đã thua Việt cộng với lối tấn công biển người tại Điện Biên Phủ năm 1954. Mỹ thì khốn đốn về du kích từ Việt Nam, Iraq cho đến Afghanistan. Nhưng nếu một cuộc chiến mới sẽ xảy ra, chắc chắn các chiến thuật xưa nầy không còn thích hợp, vì bây giờ không cần những cuộc đổ bộ cũng như trận địa chiến xảy ra ngay trên vùng hải-lãnh Tàu cộng. Ai làm chủ vùng biển, ai làm chủ vùng trời và ai mạnh về vũ khí hiện đại thì sẽ thắng dễ dàng với một bộ tham mưu đánh từ phòng lạnh và bằng cách bấm nút điều khiển. Một khi đã khóa tay Tàu cộng và làm chủ chiến trường bằng hỏa lực tầm xa, khối đồng minh với hàng trăm sư đoàn, được huấn luyện đầy đủ kinh nghiệm qua các chiến trường Iraq và Afghanistan sẽ được vận chuyển khẩn cấp để áp đặt trật tự an ninh theo nhu cầu hậu chiến trường của các thành phố và những vùng quan trọng. Đây là một là một điểm mạnh quân sự của Mỹ và đồng minh. Tàu cộng chỉ là một đội quân háu chiến nhưng thiếu kinh nghiệm chiến trường và chống đở bằng chiến thuật phòng thủ cố định, tức là ở thế thủ của một quân đội mà từ xưa đến nay Tàu cộng chỉ dùng để đánh bóng, bịp quốc tế và bảo vệ chế độ.
3. Theo nhiều tài liệu quân sự, những nhà phân tích cho thấy khả năng quân sự (vũ khí) của Tàu cộng còn kém xa dưới cả chục lần so với Tây phương. Trong đó đa số vũ khí tự sản xuất cũng như mua lại từ Liên sô cũ và của Nga hiện giờ. Với vũ khí do Liên sô sản xuất trước kia (tàu ngầm, hỏa tiễn, máy bay, giàn phóng nguyên tử) dù chưa xử dụng, thì khả năng và tầm hoạt động đã quá yếu so với ngày nay lại còn bị Tây phương thông suốt cấu trúc kỹ thật, thì những loại vũ khí nầy chỉ đáng là đồ chơi so với các vũ khí hiện đại thời nguyên tử bây giờ. Hơn nữa, một số vũ khí do Tàu cộng sản xuất hoặc mới mua sau nầy của Nga là những hàng vừa xuất xưởng, chưa có kinh nghiệm chiến trường chắc chắn sẽ trở thành những mồi ngon của hỏa lực phản pháo Tây Phương. Các loại hỏa tiễn tầm xa của Tàu cộng khó bắn tới Washington hay Paris, mà nếu có phóng tới thì cũng bị những phương tiện chống hỏa tiễn của Tây phương phá nổ ngay trên đường đi đến mục tiêu. Ngoài ra lực lượng quân đội nhân dân dù có hàng trăm triệu lính với Aka, xe tăng, đại bác, giàn phóng cũng không thể làm một cuộc viễn chinh như thời Napoléon ngày trước. Lực lượng quân đội lớn lao nầy chỉ tập trung trên lãnh thổ Tàu cộng thì đây là mục tiêu cho các con mắt điện tử của hàng ngàn vệ tinh mang đầu đạn nguyên tử đang đi tìm con mồi.
4. Tàu cộng là xứ tiêu thụ nhiên liệu quan trọng hàng đầu trên thế giới, nhưng xứ nầy không có mỏ dầu, phải nhập cảng từ các xứ Iran, Nga, Trung Phi cũng như Trung Mỹ. Dầu lửa là một phương tiện chiến lược quyết định sự tồn vong của Tàu cộng. Đây là yếu điểm hay gọi là điểm tử của một quốc gia đang phát triển mạnh về kỹ nghệ. Dù rằng Tàu cộng có chuẩn bị dự trữ một số lượng nào đó nhưng một khi chiến tranh xảy ra, bị cô lập tất cả các nguồn tiếp tế thì chế độ Tàu cộng cũng phải tan rã một cách nhanh chóng. Trước khi quyết định đánh cộng sản Tàu, Mỹ đã chuẩn bị một chương trình chận đứng nguồn cung cấp dầu lửa cho Tàu cộng từ Venezuela cũng như đã gây sự và tố cáo Iran vấn đề nguyên tử đồng thời đổ quân vào Afghanistan và phía Tây của Tàu cộng với danh nghĩa truy lùng bọn khủng bố Ben Laden nhằm chận đường tiếp tế dầu lửa từ Nga chạy vào Tàu cộng qua ngã Kazakhstan, Kirghizistan bằng đường ống. Và một khi cuộc chiến bùng nổ, kế hoạch cấm vận sẽ bao vây toàn bộ nước Tàu thì Tàu cộng dù ngoan cố cũng không thể cầm cự lâu ngày vì vấn đề thiếu tiếp vận nhiên liệu.
B. Ảnh hưởng Chính Trị (Sự nổi dậy từ trong nước. Các chư hầu đòi tự trị. Vòng vây của các nước trong khối tự do. Ảnh hưởng từ các thế lực tài phiệt):
Tàu cộng đã mất ảnh hưởng chính trị tốt đối với lân bang cũng như quốc tế qua mưu đồ xâm nhập từ hàng hóa đến thành phần lao động để lũng đoạn kinh tế và chính trị. Đối với Âu-Mỹ, sự xuất hiện từ hàng hóa đến việc xâm nhập nhân sự một cách ồ ạt là mối quan tâm cho chính quyền cũng như dân chúng của các quốc gia nầy. Ngay cả những xứ Phi Châu chậm phát triển, Tàu cộng vừa xâm nhập thương trường các địa phương nầy thì đã mang thực phẩm và hàng công kỹ nghệ bị các cường quốc Âu Mỹ tẩy chay trả về vì tính cách độc hại và thiếu an toàn để xâm nhập vào đây. Ngoài ra Bắc Kinh cũng vội vàng thi hành thủ đoạn bóc lột sức lao động dân bản xứ trong các công ty xí nghiệp do Tàu cộng vừa làm chủ. Từ đó người ta thật sự mới nhận ra nguy cơ của âm mưu ‘Tàu hóa’ với mưu đồ thống trị thế giới, ngấm ngầm như một bệnh truyền nhiễm đang lan rộng và hăm dọa loài người.
1. Đối nội, đảng cộng sản Tàu phải đương đầu với các phong trào chống đối. Sinh viên cũng như giới trí thức đã ra mặt xuống đường biểu hiện qua biến cố Thiên An Môn cũng như tổ chức Pháp Luân Công với hàng trăm triệu hội viên. Sự chống đối của các thành phần đối lập và yêu nước tại Tàu cộng đã chứng tỏ cho thế giới biết rằng chế độ Bắc kinh dù có phô trương bằng hình thức nào đi nữa cũng không thể che giấu được tình trạng tập đoàn cầm quyền đã mất lòng dân và đảng cộng sản Tàu đang trên đường thái hóa. Như vậy việc khối tự do đánh thẳng vào Tàu cũng là một hành động giúp người Trung Hoa (Đài Loan) thống nhất đất nước, giải phóng cho dân tộc Nội Mông, Tây Tạng cũng như dân chúng đã bị nhuộm đỏ trong suốt chiều dài lịch sử.
2. Tình hình chính trị và địa thế chiến lược của Tàu là những điểm bất lợi cho một cuộc chiến đại quy mô sắp đến : tại nội địa, Mongolie Intérieure, Xinjiang cũng như Thibet (Tây Tạng) đang đòi tự trị. Nếu chiến tranh xảy ra thì đây là cơ hội tốt để các dân tộc bị trị nổi dậy giành độc lập. Nước Tàu lúc đó sẽ bị xâu xé, chia năm xẻ bảy bởi chiến tranh xảy ra, trái bong bóng đang căng sẽ xì hơi và đâm đấu xuống tức khắc. Đối với bên ngoài, các quốc gia lân bang bao quanh nước Tàu đều nằm trong khối tự do. Phía Tây Nam: các xứ Á Rập gồm những nước như Kazakhstan, Kirghizistan, Tadjikistan, đang nằm dưới trướng của Nga và chịu ảnh hưởng của Mỹ, Afghanistan hiện là điểm chiến lược của Mỹ và đồng minh. Vùng Á Rập Tây Á là đường chuyển vận dầu lửa từ Nga đang bị đồng minh kiểm soát. Cũng nên nói thêm rằng Mỹ đã thuê căn cứ Manas ở Kirghizistan để chận đứng các ống dẫn dầu từ Nga đồng thời đặt căn cứ quân sự trên một hòn đảo của Tây Ban Nha gần Vénezuela để chận Vénézuela tiếp tế dầu cứu nguy cho Tàu cộng khi hữu sự. Phía Nam: Ấn Độ, một quốc gia cũng trên 1 tỷ người với tiềm năng vũ khí nguyên tử, là kẻ đang tranh chấp biên giới với Tàu cộng. Quốc gia nầy không ngồi yên và chắc chắn sẽ vùng dậy tiếp tay đánh một đối thủ đáng sợ về nhân số, chính trị cũng nhu kinh tế. Từ Phía Đông xuống đến Đông Nam Á Châu là một thành trì chống cộng gồm Nhận Bản, Nam Hàn, Phi Luật Tân, Mã lai, Nam Dương, Thái Lan. Riêng đối với Việt Nam, ngay từ bây giờ, Hà Nội đang lưu manh đi nước đôi, vừa đội quan thầy Tàu cộng lên đầu vừa bắt tay với Mỹ. Vậy một khi bộ chính trị trung ương ngửi thấy mùi chiến tranh, chắc chắn bọn chúng sẽ chạy theo kẻ mạnh để xin hai chữ bình an. Chung quanh Tàu là các quốc gia thuộc khối đồng minh, như vậy chiến trường giữa Đồng Minh và Tàu cộng chỉ còn thu gọn trong phạm vi nội địa và một phần biển Đông thuộc hải phận của Tàu. Khối tự do đã bao vây chiến trường kể cả các vùng chung quanh, trên không và vùng biển thì nước Tàu là mục tiêu bị cô lập trong cái rọ của các vũ khí và chiến cụ có tầm hoạt động đường xa. Đây là điểm yếu mà Bắc Kinh đã biết và đang lo sợ.
3. Các cường quốc Âu-Mỹ, dù đảng nào phe nhóm nào cầm quyền thì đường lối và quyền lợi của họ cũng bị các thế lực tài phiệt chi phối không nhiều thì ít. Mục tiêu của các nhóm nầy là dùng kinh-tế-thương-mãi để làm giàu bằng cách phát triển chiến tranh. Hay có thể hiểu ngược trở lại, tạo ra chiến tranh để giải quyết tất cả những vấn đề liên quan đến kinh-tế-thương-mãi. Súng đạn, máy bay tàu chiến hay những phẩm vật mang lại tang thương chết chóc đến con người nhưng cũng chính là mục tiêu dùng hàng hóa để làm giàu cho giới tài phiệt. Mới trong vòng hơn một thập niên vừa qua, cũng nhờ phát triển kinh tế và chuẩn bị chiến tranh, Tàu cộng đã xuất hiện thêm giai cấp mới, gọi là tài phiệt đỏ. Nhóm nầy dù xuất hiện sau nhưng phát triển một cách thần thánh, vì chính các cấp lãnh đạo đảng hoặc bà con dòng họ của chúng đã dựa vào họng súng, kẽm gai, nhà tù để độc quyền bóc lột và trở thành những tên tỷ phú đỏ núp bóng dưới cái võ cộng sản bần cố nông. Chúng phát triển được là nhờ vào chế độ tư bản, nghĩa là bắt tay mở cửa thỏa hiệp với kẻ thù truyền kiếp qua con đường hợp tác đầu tư và xâm nhập thị trường quốc tế để từ đó phát triển kinh tế và quân sự nhằm thực hiện giấc mơ thống trị thiên hạ. Sự kiện nầy chắc chắn sẽ gây trở ngại quyền bá chủ của các nhóm tài phiệt Tây phương, thì, Tây phương phải có thái độ và hành động đối với các nhóm tài phiệt đỏ nầy. Đây có thể là lý do để hiểu ngầm rằng các nhóm tài phiệt đã bật đèn xanh và ủng hộ chính quyền Mỹ gây chiến để tiêu diệt các nhóm tài phiệt đỏ đối lập mới. Chiến tranh cũng là mục tiêu tạo thêm nhu cầu chiến trường nhằm tiêu thụ các loại vũ khí mà các quốc gia đại tư bản Tây phương xem như phương tiện để làm giàu. Vậy một khi đã có kế hoạch thì chắc chắn Mỹ sẽ đánh, và đánh thì sẽ thắng chớp nhoáng, không cầm chừng cù cưa như tại Iraq cũng như Afghanistan.
C. Tình trạng kinh tế (Thực chất nền kinh tế. Liên quan giữa Tàu cộng và quốc tế. Hậu quả sau cuộc chiến):
Chính hàng lậu, hàng giả mạo, hàng bắt chước (hàng nhái, nói theo danh từ việt cộng) và nhất là sản phẩm độc hại cũng như thiếu an toàn do Tàu cộng ồ ạt phá giá, tung ra thị trường quốc tế, vì lợi nhuận hay mục đích đầu độc nhân loại, thì Tàu sẽ lãnh hậu quả của một cuộc chiến tranh trừng phạt kinh tế có tính cách hội đồng từ các nước tư bản. Và cũng vì sự phát triển kinh tế từ căn bản trên cát được chắp vá do nhu cầu (đơn đặt hàng) của khối tự do, thì nền kinh tế Tàu cộng sẽ thảm bại một cách nhanh chóng khi tiếng súng khai hỏa. Đồng thời chiến tranh sẽ đưa đất nước rộng lớn với 1 tỷ 4 trăm triệu người trở thành tay không và quay lại đời sống nông nghiệp trước kia với hình ảnh con trâu đi trước cái cày theo sau. Tôi xin đưa ra vài hình ảnh để chứng minh:
1. Hàng xuất khẩu, nhất là toàn bộ thực phẩm, Tàu đã xử dụng những chất hóa học trợ lực hoặc xúc tác chứa một lượng độc tố vượt quá hàng chục lần so với mức ấn định của các cơ quan kiểm soát thực phẩm quốc tế. Những chất độc nầy tuy không gây bệnh tức thời nhưng tích tụ trong cơ thể máu huyết và sẽ bộc phát vào một thời gian nào đó, lúc bấy giờ các nhà khoa học cũng đành bó tay trước các chứng nan y quái gở hoặc những bệnh ung thư vô phương cứu chữa. Tiếp đến, những hàng hóa tiêu dùng từ y phục đến đồ chơi trẻ em đều chứa một lượng hóa học có chất độc hại cao và thiếu an toàn cho người xử dụng mà trong những năm gần đây các quốc gia văn minh Tây Phương từ chối nhập khẩu thì Tàu cộng sẽ đem ve vãn bán giá rẽ cho các quốc gia nghèo chưa phát triển tại Phi Châu. Đây là một lối thương mãi có hậu ý của Bắc Kinh, và trước sau gì Trung cộng cũng phải trả lời trước quốc tế về hành động tội ác nầy. Khi nói đến hàng mang nhản hiệu ‘made in China’, cần phải phân thành hai loại hàng hóa. Sản phẩm nào do các đại công ty ngoại quốc đầu tư, có trách nhiệm, có kiểm soát trước khi tung ra thị trường thì tạm thời có thể tin tưởng để xử dụng. Nhưng ngược lại từ hộp tăm xỉa răng, cuộn giấy đi cầu, các loại thực phẩm đến hàng tiêu dùng khác do chính Tàu cộng sản xuất và xuất khẩu đều có tính cách lừa bịp, tráo trở, dùng nguyên liệu (matière première) giả, biến chế và sản xuất vô trách nhiệm, thiếu vệ sinh (bất chấp norme ISO) để giá thành phẩm trở nên rẻ mạt hầu cạnh tranh với các loại hàng hóa do khối tự do sản xuất. Chính hàng hóa của Tàu cộng đã phá hoại và đảo lộn thị trường sản xuất cũng như tiêu dùng thế giới vì hai lý do. Một, Tây Phương phải nhập hàng Tàu cộng vì các chính phủ của họ bị ‘ràng buộc có ẩn ý’ bởi các hợp đồng thương mãi hai chiều. Người ta còn ghi nhận Tàu cộng thường đặt các loại hàng thượng đẳng như máy bay, tàu chiến, thực phẩm, nguyên liệu, khoáng sản, thiết bị hiện đại và tuyệt đối không mua hàng hóa tiêu dùng bình dân sản xuất từ phía tự do. Ngược lại Tàu xuất vào các quốc gia Tây phương các loại thực phẩm biến chế và hàng hóa hạ đẳng giả mạo, thiếu an toàn và thiếu chất lượng. Hai, số lượng hàng nhập đủ mọi ngành đang tràn ngập các cảng quốc tế, không đủ nhân viên quan thuế và vệ sinh để kiểm soát từng kiện hàng tráo trở một. Ba, các nhà nhập cảng nhận hối lộ, hưởng hoa hồng hay lợi nhuận cao (hối lộ là bí quyết hương mãi của người Tàu). Bốn, giới tiêu thụ ham rẻ bất chấp lời khuyên của các cơ quan kiểm nghiệm về an toàn cũng như sức khỏe. Nếu một ngày nào đó thế giới ngưng tiêu thụ hàng của Tàu cộng thì Bắc Kinh chỉ còn nước thu hồi hàng hóa về và biến chế trở lại thành thực phẩm (nghề của Tàu cộng) để chia đều cho dân chúng ăn dặm với cháo trắng hột vịt muối.
2. Căn bản của nền kinh tế thương mãi Tàu cộng dựa vào công nghiệp nhẹ, sản xuất theo đơn đặt hàng của các nhà đầu tư ngoại quốc hay chính do Tàu cộng sản xuất hàng tiêu dùng để cung cấp một cách đại chúng đến giới tiêu thụ bình dân. Vào một siêu thị tại các khu vực của người Á Châu, người ta có thể bắt gặp đến 90 phần trăm hàng tiêu dùng hạ đẳng đều do Tàu cộng sản xuất, và trong những khu vực dành cho người địa phương thì bách phân nầy vẫn ở một mức độ vài chục phần trăm. Sở dĩ hàng hóa Tàu cộng tràn ngập ồ ạt thị trường là do các hợp đồng đầu tư của các công ty nước ngoài cũng như hậu quả của việc giao thương hợp tác song phương giữa các quốc gia. Lý do giá thành phẩm thấp là vì nhân công nội địa bị bóc lột, hàng tiêu dùng do chính Tàu sản xuất, xuất được miễn thuế trong nước và ưu đãi nhập của Hoa Kỳ Ngoài ra Bắc Kinh ngoan cố phá giá đồng nhân dân tệ để xâm nhập hàng hoá dễ dàng vào các thị trường quốc tế. Từ khi nền công nghiệp nhẹ và gia công phát triển ồ ạt trên lãnh thổ nước Tàu, người nông dân bỏ ruộng vườn dồn về các nhà máy thành phố. Nếu vì lý do chiến tranh, các nhà đầu tư ngưng hoạt động rút đi hoặc không đặt hàng, không cung cấp nguyên liệu thì tất cả cơ sở và nhà máy trở thành nghĩa địa, và nếu, các nước Tây Phương đồng loạt tẩy chay hàng Tàu cộng thì nước Tàu sẽ ra sao? Một nền kinh tế dựa trên căn bản sức lao động con người và sản xuất hoàn toàn tùy thuộc vào mức tiêu thụ nước ngoài thì sẽ sụp đổ tức khắc khi không có nhu cầu. Bắc Kinh phải giải quyết thế nào khi hàng triệu tấn hàng hóa bị từ chối trả về và hàng trăm triệu nhân công trong các cơ xưởng nhà máy không có công ăn việc làm? Đây là điểm ‘tử ‘của một nền kinh tế xây trên lầu đài bằng cát mà Tàu cộng thường tự hào và xem như một đòn phép nặng ký để đe dọa thị trường quốc tế.
3. Nhiều quốc gia Tây Phương đang đứng trước một lo ngại về kinh tế:
Các nhà đầu tư bỏ xứ đi tìm thị trường nhân công rẻ để chuyển công nghệ, cơ sở và xây dựng nhà máy ra nước ngoài, nhất là Á châu, trong đó Tàu cộng là một địa bàn thu hút đặc biệt các nhà đầu tư Tây phương. Thành phẩm sản xuất xong ở Á Châu được nhập trở lại tiêu thụ ngay trong nước và doanh số chiếm một tỷ lệ áp đảo thị trường nội địa. Dĩ nhiên một số hãng xưởng bắt buộc đóng cửa và nạn thất nghiệp càng ngày càng gia tăng. Việc các nhà đầu tư bỏ nước ra đi kéo theo nhiều lợi nhận sản xuất đối với quốc gia sở tại cũng như quyền lợi thuế khóa lại rơi vào tay nước ngoài thì các nhà có trách nhiệm kinh tế phải tính lại bài toán. Theo tôi, bài toán ở đây là đóng cửa rút cầu bằng giải pháp quân sự. Chiến tranh là giải pháp duy nhất để giải quyết nhiều vấn đề cùng một lúc, trong đó có phần xóa tên các nhóm tài phiệt mới và rút các nguồn đầu tư về tạo công ăn việc làm cho dân bản xứ. Công việc nầy không phải thuần túy quyết định của chính phủ và lãnh đạo quân sự mà phần lớn do bàn tay của giới tài phiệt Mỹ cũng như Châu-Âu nhúng vào. Tài phiệt chỉ biết có quyền lợi, mà một khi quyền lợi không đạt được theo ý muốn hay bị tranh giành va chạm thì họ phải nghĩ đến việc thay chiều đổi hướng. Giới tài phiệt Mỹ-Âu không thể kéo dài tình trạng hiện nay để xây bê tông cốt sắt cho nhóm tài phiệt Tàu đỏ, phát xuất từ những tên bần cố nông, lợi dụng môi trường đỏ để trở nên giàu có với đầy đủ quyền lực. Nếu không chặt tay chặt chân nhóm tài phiệt đỏ ngay bây giờ thì trong vài chục năm nữa chúng sẽ thống trị thế giới. Đây là lý do một cuộc chiến sẽ phải xảy ra trong nay mai. Theo quan niệm của giới tài phiệt Mỹ-Âu thì phải tiêu diệt mầm mống Trung cộng để gầy dựng lại những địa bàn mới vừa béo bở, vừa dễ bảo hơn như Ấn Độ, Đông Âu và Á Rập Bắc Phi.
D. Những đòn phép mở màn cho cuộc chiến (Thay đổi hối xuất đồng Dollars. Tạo khủng hoảng kinh tế. Tăng thuế nhập tất cả hàng nhập của Tàu):
Một khi dứt khoát tiến hành một cuộc chiến thì phải chấp nhận bất cứ hành động gì có thể làm được để triệt hạ đối phương, không còn phải thắc mắc đến hiệp ước, hợp đồng ký kết hay quan tâm đến vấn đề nhân đạo, như vậy mới có thể mạnh tay để thắng trận. Vậy căn cứ vào đâu để gây chiến tranh?
1. Dựa vào việc Bắc Kinh thao túng thị trường, Mỹ chỉ cần đánh thuế hàng nhập khẩu của Tàu cộng lên từ 30% đến 50% trong vòng một thời gian ngắn thì Tàu sẽ bật ngữa ra chết vì phá sản. Đây là một vấn đề mà bất cứ quốc gia tiêu thụ nào cũng có thể thực hiện trong các điều kiện theo luật định của chính sách ngoại thương, nhưng thực tế Bắc Kinh vẫn lầm lẫn với thái độ cao ngạo đối với những gì họ đã ký kết. Tàu cộng nghĩ rằng họ là khách hàng, là chủ nợ số 1 của Hoa Ký cũng như một số nước ở Châu-Âu thì quyền của một người chủ nợ có thể ngang nhiên hành động và khinh thường con nợ. Nhưng trên chiến trường thương mãi người ta có trăm phương ngàn kế kiếm khẻ hở của đối phương để vô hiệu hóa hợp đồng và quỵt nợ! Buôn bán là nghề tay phải của người Tàu, nhưng dù được hấp thụ bí quyết thương mãi gia truyền kiểu ‘chạp phô’ thì những bộ óc xuất thân từ thành phần bần cố nông cũng khó qua mặt được các tay tổ trong các tập đoàn tài phiệt Âu-Mỹ, nhất là những kế hoạch kinh tế dài hạn mà họ được đào tạo hàng chục năm trong các trường đại học chuyên nghiệp. Đây là điểm cao ngạo của những người cộng sản như chúng ta thường thấy trong đầu óc thành phần lãnh đạo của Bắc Hàn, Cuba, Việt Nam cũng như Tàu cộng.
2. Nợ không trả nổi thì chỉ còn cách xù (hay quỵt) và một khi các con nợ đồng loạt xù chắc chắn chủ nợ trắng tay! Nhưng không thể dễ dàng chạy trốn một cách vô trách nhiệm mà chỉ cần tạo ra chiến tranh thì mọi chuyện đều không còn gì phải bận tâm để bàn đến nữa. Đây là bí quyết chạy làng một cách êm thấm, dù Mỹ hay quốc gia nào có trọng danh dự đến đâu thì cũng không còn cách chọn lựa nào khác, vì đây là hậu quả đương nhiên của chiến tranh !
3. Đồng dollar của Mỹ được xem như ‘khuôn vàng thước ngọc’ cho nhiều loại tiền khác trên thế giới, nhất là các xứ Ấ Châu và nói riêng là nhân dân tệ của Tàu. Tàu cộng thủ đắc hàng ngàn tỷ dollars, chủ nợ số 1 của Mỹ bằng công khố phiếu thì cũng tạm xem như Tàu đang giữ một nắm giấy lộn nếu bàn tay ma giáo của Mỹ có thể tạo xáo trộn kinh tế, gây bất ổn chính trị để biến công khố phiếu từ vàng, xuống bạc, xuống đồng, rồi thành chì hay đất sét (hoặc ngược lại). Như vậy số dollars khổng lồ trong tay Tàu cộng hôm nay có giá, nhưng ngày mai biến thành giấy lộn là một việc có thể xảy ra. Thay đổi hối xuất đồng dollars cũng là một đòn phép Mỹ thường xữ dụng và một khi muốn đánh bại chủ nợ Tàu cộng thì Mỹ chỉ cần dùng khổ nhục kế trong một thời gian ngắn thì Tàu cộng sẽ là xứ hàng đầu điêu đứng và sạt nghiệp kinh tế trước tiên.
4. Ngoài ra, nếu Mỹ ngụy tạo khủng hoảng kinh tế quy mô một lần nữa thì Tàu cộng cũng là nạn nhân chính, vì Tàu cộng là nước có liên hệ mật thiết kinh tế và thương mãi với Mỹ. Kinh nghiệm cho biết cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 2008, thị trường chứng khoán Tàu cộng và Nga đã giảm giá trị xuống 4 lần (4 còn 1). Vậy khủng hoảng kinh tế trong tương lai sẽ đưa Tàu cộng đi về đâu?
Cộng sản xứ nào cũng vậy, xuất lò chung một thầy thì tất cả đều giống nhau, nghĩa là khoác lác, to mồm, lì lợm, ngoan cố và hung hăng. Nhưng khi khối tự do nổi giận, ra tay kiếm cớ trừng trị thì chúng rút vào ốc vỏ rồi chỉ ra thông cáo phản đối như Bắc Hàn, Cuba, Việt Nam trước đây và Tàu cộng trong mấy ngày vừa qua. Nếu lần nầy Mỹ và khối đồng minh bắt tay đánh hội đồng, Tàu cộng sẽ lộ mặt thật là con hổ giấy thì các cộng sản đàn em hết nơi nương tựa và tự động cuốn gói từ bỏ cái thiên đường xã hội chủ nghĩa ưu việt của chúng.
Đinh Lâm
Paris, Mùa Hè 2010
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét