Thứ Hai, 31 tháng 7, 2017

NĐD ! LỊCH SỬ DẦN HÉ LỘ

GOP Y: Hoa-kỳ đã …’’giải-mã’’ về cái chết của anh em Cụ Diệm là do bàn tay của TT Kendy sát hại, không còn gì tranh-cãi! Không dám đương đầu  với sự thật hiển nhiên , mà chỉ xăm xoi vào …’’phe ta’’ …tấn công!!! Không lẽ đã   ‘’học’’ được ‘’cụm từ’’  ‘’thượng đội hạ đạp’’ của VC!!!!???

Người QG bị phân-hóa chia rẽ là do ‘’phe ta’’ chưa muốn nhìn vào  lịch-sử do các  siêu-cường khuynh-loát!!! Nên còn nuôi-dưỡng …’’cảm súc’’  thương – ghét… mà không chịu nhìn vào CSHN đang …bán nước….!!!  

Để tạo THẾ  và  LỰC,  THỐNG-HỢP QG về một khối. Vinh-danh Cụ Diệm là Người sáng lập VNCH thật đáng tuyên-dương (Y). Nhưng không vì thế mà ‘’phe ta’’ đổ thừa cho nhau mà còn dùng những …ngôn-từ thiếu thuyết-phục!!!

Nghiệt-ngã cho đất nước tôi!!!

VP Nguyễn-Đình-Khánh


LỊCH SỬ DẦN HÉ LỘ 
Một số tài liệu trước đây có đề cập đến việc ông Ngô Đình Nhu bắt liên lạc với miền Bắc. Như vụ tạo cớ đi săn bắn vào tháng 2/1963 để gặp UV Bộ Chính trị Phạm Hùng tại rừng Tánh Linh Bình Thuận....tài liệu dưới đây cho chúng ta một cái nhìn rõ hơn đã xảy ra trong cùng một thời điểm...và đó có phải là lý do chính đưa đến vĩệc chính quyền Mỹ mượn tay Phật giáo & Tướng lãnh thủ tiêu anh em ông Ngô Đình Diệm???
Thế hệ trẻ sau 1975 nên tìm đọc để hiểu rõ nội tình đất nước,mà có hướng đi thích hợp...
**************
MỐI TÌNH MANELI
Mối liên hệ bí mật của ông Ngô Đình Nhu với Hà Nội
I. “Mối tình Maneli” nghĩa là gì?
Mối liên hệ giao thiệp thương thảo bí mật của em trai cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm là ông Ngô Đình Nhu với Cộng Sản Hà Nội nhằm thúc đẩy hai miền Nam- Bắc của Việt Nam né tránh một cuộc xung đột ý thức hệ ngu xuẩn chỉ có lợi cho Trung Quốc được giới tình báo Hoa Kỳ tặng cho một cái tên là “Mối tình Maneli” ( “Maneli affair”)
Trong cuộc thuơng thảo này, Việt Nam Cộng Hòa đồng ý viện trợ kinh tế bao gồm lúa gạo, sản phẩm gia dụng và y tế cho Cộng Sản Hà Nội nếu Cộng Sản Hà Nội đồng ý tuyên bố đứng trung lập, không gia nhập khối Xã Hội Chủ Nghĩa và cùng với Việt Nam Cộng Hòa tham gia liên minh “Các Nước Không Liên Kết” của Ấn Độ. Việt Nam Cộng Hòa cam kết thuơng mại trao đổi với Cộng Sản Bắc Việt và sẽ cố gắng giúp Hà Nội thoát khỏi tình trạng đói kém do đang bị cô lập với thế giới bên ngoài và phải sống bằng viện trợ chu cấp mọi thứ bởi Bắc Kinh để đến nổi buộc lòng phải đi theo đường lối Đấu Tố của Mao Trạch Đông khiến hai trăm ngàn oan mạng bị giết chỉ trong vài năm.
Cộng Sản Hà Nội lưỡng lự trước nước cờ táo bạo này của ông Ngô Đình Nhu vì biết rõ những cam kết mà Việt Nam Cộng Hòa đưa ra rất thật lòng dựa trên sự ổn định phát triển kinh tế của miền Nam Việt Nam trong suốt gần chín năm sau hiệp nghị Geneve 1954.
Khi tình báo Hoa Kỳ liên tục gởi tín hiệu cho Washington biết về “mối tình Maneli” động trời này của hai anh em ông Diệm, Tổng Thống Kennedy vô cùng tức giận vì ông cho rằng, đây là một sự “phản bội tàn nhẫn.” Tòa Bạch Ốc từ đó quyết tâm loại bỏ hai anh em ông Diệm ra khỏi quyền lực bằng mọi giá.
Thế nhưng mười năm sau, nước Mỹ lại áp dụng y chang kế sách của ông Nhu, Henry Kissinger thất hứa với chính phủ Nguyễn Văn Thiệu, đi đêm với Chu Ân Lai làm cho Việt Nam mất quần đảo Hoàng Sa và thất thủ hoàn toàn sau đó; dẫn đến cả triệu thuờng dân Campuchia bị Cộng Sản sát hại, trên hai triệu người Việt bị tan nhà nát cửa và tù tội để có được một hòa bình trong nhục nhã. Đây mới đúng là một sự “phản bội tàn nhẫn” như Tổng Thống Kennedy đã từng thốt lên trước đó.
II. Tại sao lại gọi là “mối tình Maneli” ?
Maneli là họ của ông Mieczysław Maneli, một người Ba Lan được cho là sanh vào ngày 22 tháng Giêng năm 1922 tại Miechów và mất vào vào ngày 9 tháng Tư năm 1994 tại New York, Hoa Kỳ. Ông là đại diện cho Ba Lan trong Hội Đồng Giám Sát Hiệp Nghị Geneve 1954 về Việt Nam, có tên tiếng Anh là “the International Commission for Supervision and Control in Vietnam,” gọi tắt là ICC hay ICSC. Hội đồng này gồm ba quốc gia, một thuộc thế giới tự do là Canada, một thuộc khối Cộng Sản là Ba Lan và một thuộc khối Không Liên Kết là Ấn Độ.
Chính phủ Cộng Sản tại Ba Lan hoàn toàn không có chủ định can thiệp sâu rộng vào nội tình chính trị của Việt Nam lúc bấy giờ nhưng vì Hà Nội cần Ba Lan làm cầu nối ngoại giao độc lập khỏi sự kềm tỏa của Trung Quốc để tìm hiểu thêm ý định chiến lược của hai anh em ông Diệm. Cho nên, Maneli chỉ ráng đóng vai trong của một sứ giả, truyền đạt những thông điệp cần thiết từ Hà Nội, từ Moscow đến với hai anh em ông Diệm-Nhu và ngược lại. Tuy nhiên, vòng xóay chính trị giữa Moscow- Hà Nội- Sài Gòn- Ấn Độ – Hoa Kỳ khiến ông Maneli ngày càng bị lôi cuốn sâu vào nội tình Việt Nam.
Hoa Kỳ theo dõi chặt chẽ các chuyến đi ngoại giao của Maneli tới Hà Nội Sài Gòn để biết hiểu rõ thêm ý đồ chiến lược của hai anh em Diệm Nhu. Từ đó , cái tên “mối tình Maneli” (“Maneli Affair”) được hình thành.
Kết cục của “mối tình Maneli” là Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Nhu đều bị giết sau vụ đảo chánh ngày 1 tháng 11 năm 1963. Người bật đèn xanh cho cuộc đảo chánh dẫn đến cái chết của Tổng Thống Diệm là Tổng Thống Hoa Kỳ, John F. Kennedy, sau đó cũng bị ám sát bí hiểm không đối chứng trong cùng một tháng cùng năm. Tại Hà Nội, phe Lê Duẫn cũng lên thay thế quyền hành của Hồ, của Đồng và Tổng Bí Thư Đảng Liên Xô, Khrushchev, người ủng hộ lập trường Việt Nam trung lập của ông Diệm cũng bị truất phế bởi phe đầu đá Brezhnev ngay vào năm 1964.
Riêng Mieczysław Maneli, ông xin tỵ nạn chính trị tại Hoa Kỳ vào thập niên 1980 và sống tại xứ sở này cho tới ngày ông mất.
III. Nội tình của bên trong “mối tình Maneli” :
Không cách gì có thể trình bày hết được chi tiết và cũng không thể nào tóm gọn các chi tiết bên trong của “mối tình Maneli” chỉ qua một bài viết ngắn ngủi vì mỗi chi tiết điều có ý nghĩa vô cùng quan trọng liên quan đến lịch sử bị đát của Việt Nam Cộng Hòa, một quốc gia coi trọng tình tự dân tộc lên trên mọi chủ nghĩa, mọi tôn giáo, dẫn đưa đến tính mạng của gia đình Tổng Thống Ngô Đình Diệm, kể cả tính mạng của Tổng Thống Kennedy, cũng như liên quan đến kế hoạch “phế mã tranh tiên” của Hoa Kỳ làm toàn bộ khối Cộng Sản bị sa lầy trong chiến thắng quân sự mà rồi bị kiệt quệ và chia rẽ dẫn đến sự sụp đổ hoàn toàn tại Âu châu.
Tuy nhiên, một điều quan trọng nhất tạo sửng sốt cho mọi nhân vật có liên quan và khiến không ai có thể ngờ tới được nếu biết rõ tình tiết của “mối tình Maneli” là đích thân Tổng Thống Ngô Đình Diệm cam kết sẽ trục xuất Hoa Kỳ ra khỏi miền Nam Việt Nam ngay lập tức nếu Cộng Sản Bắc Việt chịu bãi binh và cùng đồng ý nắm tay với ông tham gia khối các nước Không Liên Kết do Ấn Độ chủ xướng.
Thái độ dứt khoát né tránh chiến tranh ý thức hệ tạo bởi hai siêu cường Liên Xô- Hoa Kỳ có Trung Quốc tham dự của Tổng thống Diệm làm sửng sốt không những Hà Nội mà ngay đến cả Moscow cũng bàng hoàng.
Moscow toan tính rằng việc trung lập hóa Việt Nam sẽ rất hay vì cùng một lúc xóa bỏ ảnh huởng vô cùng sâu rộng của Cộng Sản Trung Quốc lên Hà Nội và hất Hoa Kỳ ra khỏi Sài Gòn mà không cần súng đạn. Việt Nam từ đó sẽ theo liên minh Ấn Độ vốn có đường lối ngoại giao cởi mở đối với Liên Xô. Từ đó, Liên Xô có thể gián tiếp ảnh huởng lên Việt Nam thông qua Ấn Độ; dù sao, Ấn Đô vẫn đáng tin cậy hơn là Cộng Sản Trung Quốc, theo cách nhìn của Khrushchev, Tổng Bí thư Đảng Cộng Sản Liên Xô lúc bấy giờ.
Riêng về Cộng Sản Hà Nội, mở cửa qua lại kinh tế với Việt Nam Cộng Hòa là một điều không thể được vì cả miền Bắc vẫn còn đang rún sợ Đấu Tố và sẳn sàng ồ ạt bỏ Hồ Chí Minh nếu có thông thương với miền Nam Việt Nam. Cho nên, Cộng sản Hà Nội muốn kéo dài nổ lực trung lập Việt Nam của hai anh em ông Diệm để Hoa Kỳ có thì giờ loại bỏ ông Diệm ra khỏi quyền lực dù biết rằng Moscow ủng hộ đề nghị này. Hơn nữa, Cộng Sản Hà Nội trong đó có cả Hồ Chí Minh không đủ can đảm để qua mặt Bắc Kinh như ông Diệm cương quyết qua mặt Hoa Kỳ. Đối với ông Diệm, quốc gia vẫn là trên hết nhưng đối với Cộng Sản Hà Nội thì chủ nghĩa Mác Lê, thế giới đại đồng quan trọng hơn tương lai quốc gia.
IV. Hệ lụy của “mối tình Maneli”:
Sau khi “mối tình Maneli” tan vỡ, dân tộc Việt Nam đã phải đổ máu cho chiến thắng tất yếu của chủ nghĩa cuồng Cộng Sản, của thiên đường mù Xã Hội Chủ Nghĩa. Kết thúc cuộc chiến tranh ý thức hệ phi lý vô nghĩa gây ra bởi Cộng Sản Bắc Việt, dân tộc Việt Nam chẳng còn gì ngoài câu nói đau thuơng của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu : ” ĐỪNG NGHE NHỮNG GÌ CỘNG SẢN NÓI MÀ HÃY NHÌN NHỮNG GÌ CỘNG SẢN LÀM !”
Thông qua “mối tình Maneli”, các sử gia sẽ thấy ngay được tấm lòng yêu nước của hai anh em ông Diêm. Đối với hai ông, “quốc gia là trên hết!” Hai ông đã cố ráng tìm đủ mọi cách để cho đất nước có hòa bình dân chủ và độc lập bất chấp hy sinh tính mạng. Việt Nam sau này sẽ lại quay về với con đường Việt Nam Cộng Hòa mà hai ông đã khởi xướng và nhìn lại hình ảnh của hai ông như là điểm tựa của một niềm tin, đó là tình thần quốc gia Việt Nam Cộng Hòa không bao giờ chết!

TẤM VẢI LIỆM JESUS LÀ HỐ CHÔN ĐẠO CÔNG GIÁO

TẤM VẢI LIỆM JESUS LÀ HỐ CHÔN ĐẠO CÔNG GIÁO
Phúc âm của John (20: 1-18) đã cho chúng ta biết Peter (Phêrô) là người đầu tiên nhặt tấm vải liệm xác Jesus mà Joseph và Nicodemus đã bỏ lại tại nhà mồ. Đối với mọi người, thường thì đó là một vật ghê gớm chẳng ai dám mang về nhà, nhưng đối với các môn đệ và tín đồ sùng kính Chúa Kitô thì nó lại là một thánh tích (holy relic) thiêng liêng vô giá. Và quả thật, tấm vải liệm xác của Chúa Jesus cho đến nay vẫn là một di vật độc nhất vô nhị có in hình khuôn mặt và thân thể Ngài. Nó cũng là một nhân chứng thầm lặng (the silent witness) duy nhất nói lên tất cả sự thật về cái chết của Chúa cũng như nói lên cái thực chất của đạo Kitô và Tòa Thánh La Mã.
Theo một cuốn sách của Thánh Nino (chết năm 335) thì tấm vải liệm lúc đầu đã lọt vào tay bà vợ của quan toàn quyền La Mã Pilate. Bà này rất có thiện cảm với Chúa Jesus và đã từng yêu cầu chồng đừng giết Ngài. Theo cuốn Lịch Sử Hội Thánh của giám mục Eusebicus viết năm 325 thì sau khi Chúa chết được ít lâu, một tông đồ thuộc vòng ngoài (outer circle) của Chúa tên là Addai đã đem tấm vải liệm đến Edessa (Thổ Nhĩ Kỳ) để tặng cho vua xứ này là Abgar V. Lúc Chúa Jesus còn sống, vua Ablgar đã nghe tin Chúa làm nhiều phép lạ nên đã cho người đến mời Chúa sang Edessa chữa bệnh cho vua. Nhưng Chúa chưa kịp đi thì đã bị bắt và bị giết. Theo sách của Eusebicus, nhà vua có lòng tin Chúa đã tôn thờ tấm vải liệm và đã được Chúa ban ơn khỏi bệnh (Ghi chú: Phúc âm của Luke 10:1 cho biết Chúa Jesus có 12 tông đồ thuộc vòng trong và 70 tông đồ thuộc vòng ngoài). Khoảng năm 57, vua Abgar V chết, người con lên thay là Abgar VI lại rất ghét đạo Kitô và ra lệnh cấm đạo. Các giáo dân ở Edessa đã đem tấm vải liệm cất dấu cẩn mật, đến nỗi mấy thế kỷ sau tấm vải liệm biệt tích.
Bỗng nhiên, vào năm 525, Edessa bị cơn lụt lớn tàn phá khiến cho trên 3000 người bị chết đuối, nhiều nhà bị cuốn trôi và cổng thành phía tây của hoàng cung bị sập. Lúc đó người ta mới thấy tấm vải liệm được dấu trong hốc tường của cổng thành này. Vào thời kỳ đó, Edessa bị lệ thuộc đế quốc La Mã. Hoàng đế La Mã Justinien hay tin rất mừng rỡ và ra lệnh xây cất tại Edessa một thánh đường lớn, nay gọi là nhà thờ Haiga Sophia, để tôn kính thánh tích tấm vải liệm.
Năm 639, Edessa bị quân Hồi Giáo chiếm đóng nên tấm vải liệm được đem đi nơi khác cất giấu.
Năm 670, tấm vải liệm xuất hiện tại Palestine. Nhân dịp đi hành hương tại Palestine, giám mục người Pháp tên Arcurf Pirigeux thấy một đám đông kéo tới một ngôi nhà thờ để kính viếng tấm vải liệm. Ông đi theo và đã được diễm phúc hôn lên tấm vải liệm này. Sau khi trở về Pháp, ông đã viết sách kể lại chuyện trên.
Năm 944, không biết do nguyên cớ nào, tấm vải liệm xuất hiện tại nhà thờ St. Mary ở Constantinople (Thổ Nhĩ Kỳ).
Năm 1203, thánh tích này được đưa về nhà thờ Balachermal (Hy Lạp). Nhà thờ này mở cửa suốt ngày thứ sáu hàng tuần cho mọi người vào kính viếng thánh tích.
Năm 1418, tấm vải thánh tích được chuyển về pháo đài Monfort (Pháp) thuộc dòng họ Charny.
Năm 1452, Công chúa Magaret Charny tổ chức một cuộc triển lãm cho công chúng đến chiêm ngưỡng tấm vải liệm tại lâu đài Germolles. Cuối cùng vì quá cảm mến ông quận công Savoy, công chúa đã tặng cho quận công tấm vải liệm thánh tích vô cùng quí giá này. Bù lại, quận công tặng cho công chúa Magaret một lâu đài tráng lệ tại Genève và toàn bộ lợi tức bất động sản của quận công tại thành phố Lyon. Quận công Savoy cho xây một thánh đường tại Chambery để tôn thờ tấm vải liệm.
Năm 1506, Giáo Hoàng Julius II ban hành sắc lệnh của tòa thánh công nhận tấm vải liệm là thánh tích thật của Chúa Jesus và ra lệnh cho toàn hội thánh phải dâng lễ kính thánh tích này vào ngày 4 tháng 5 hàng năm. Đây là một ngày lễ chính thức của hội thánh La Mã (The Feast Day of the Holy Shroud). Từ đó, thánh đường riêng của dòng họ Savoy trở thành một nơi hành hương của các tín đồ Kitô Giáo khắp thế gíới.
Ngày 17.9.1578, quận công Philibert de Savoy dời đô về Turin (nay thuộc nước Ý) và đặt tấm vải liệm tại nhà thờ chính của thành phố này. Kể từ đó người ta gọi tấm vải liệm là "khăn liệm Turin" (The Turin Shroud).
Nhân dịp mừng đám cưới của hoàng tử Umberto Savoy vào tháng 5/1931, hoàng gia tổ chức cuộc triễn lãm thánh tích trong 3 tuần lễ đã thu hút rất đông tín đồ từ khắp nơi kéo về chiêm bái.
Umberto sau đó lên làm vua nước Ý, đến thế chiến thứ hai, ông bị lật đổ, phải lưu vong tại Bồ Đào Nha. Ngày 2.3.1983, Giáo Hoàng John Paul sang Bồ Đào Nha gặp cựu hoàng Umberto để yêu cầu cựu hoàng chuyển giao quyền sở hữu tấm vải liệm cho tòa thánh. Cựu hoàng đồng ý trao tặng tòa thánh thánh tích quí giá này. Hai tuần sau, cựu hoàng qua đời vì quá già yếu. Thế là phải đợi gần 2000 năm sau khi Chúa chết, di vật duy nhất của Chúa mới thuộc về người đại diện Ngài ở thế gian này (Vicar of Christ)! Đối với niềm tin tôn giáo, tấm vải liệm là một thánh tích thiêng liêng về công ơn cứu chuộc vô cùng của Thiên Chúa đối với loài người. Nhưng đối với các nhà khoa học, tấm vải liệm là một di vật quí giá sẽ nói lên những sự thật về con người của Chúa. Họ coi đó là một nhân chứng thầm lặng có khả năng tố giác sự thật về cái chết của Ngài. Các nhà khoa học không cần quan tâm đến các khía cạnh triết lý hay thần học. Cái họ quan tâm duy nhất là đi tìm sự thật khách quan, với mục đích cuối cùng là để phụng sự những lợi ích của nhân loại.
Nước Pháp là nơi đầu tiên có sáng kiến điều tra sự thật về tấm vải liệm hoàn toàn trên phương diện khoa học.
Năm 1900, trường đại học Sorbonne (Paris) thành lập một phái đoàn gồm các nhà sinh vật học (biologists), do giáo sư Paul Vignon cầm đầu, đã tới Turin nghiên cứu và khảo nghiệm vải liệm. Ngày 21.4.1902, giáo sư Paul Vignon đã đến Viện Hàn Lâm Khoa Học Pháp để đọc bản tường trình về hình ảnh của Chúa Jesus trên thánh tích vải liệm (The image of Christ visible on the Holy Shroud of Turin). Trong đó có đoạn viết: "Về phương diện y khoa, những vết thương và những dữ kiện khác trên tấm vải liệm thật là hoàn hảo, không có chỗ nào hư hỏng và không có một nghệ sĩ nào có thể làm giả được". (From a medical point of view, the wounds and the other data so automatically flawless that it seemed impossible that the work of any artist). Để giải thích nguyên nhân nào hình ảnh của Chúa Jesus đã được tạo thành trên tấm vải liệm, giáo sư Paul Vignon khẳng định: "Tôi cho rằng hình ảnh trên tấm vải liệm là của Chúa Kitô được cấu tạo bởi tiến trình vừa vật lý vừa hóa học trong lúc Ngài nằm trong mộ". (I considered the shroud image to be of Christ, created by a special physio-chemical process while he had laid in the tomb). Giáo sư Vignon và phái đoàn sinh vật học của ông đồng nhận định: những dấu vết in trên tấm vải liệm phù hợp với vóc dáng của một người cao lớn miền Địa Trung Hải. Hai vai rộng và chân tay gân guốc phù hợp với nghề tay chân hay nghề mộc của Chúa.
Năm 1930, một cuộc điều tra thứ hai do bác sĩ Barlet và một số các bác sĩ chuyên gia giải phẩu thuộc bệnh viện Saint Joseph Paris thực hiện với kinh nghiệm lâu năm trong việc giải phẩu người sống và xác chết, phái đoàn này đã đến Turin nghiên cứu tấm vải liệm và đưa ra nhiều nhận xét tỉ mỉ: "Người để lại dấu vết trên vải liệm đúng là một tử tội bị đóng đinh, tuổi từ 30 đến 35, cao 6 feet và nặng 175 pounds, thân hình rắn chắc gân guốc" (Well-built and muscular). Phái đoàn của Barbet không tìm ra được loại máu (blood type) hay tài liệu về răng (dental record), nhưng quả quyết các dấu vết là máu người chứ không phải là sơn hay bất cứ một hợp chất nào khác.
Bác sĩ Barbet báo cáo thêm rằng: Trong quá trình bị đóng đinh, xương cổ tay của nạn nhân đã bị gẫy (the wrist bones would have been broken in the process). Điều này trái với lời tiên tri trong Cựu Ước về Chúa Kitô: "Không một xương nào của Chúa sẽ bị gãy". (PS 34:20, EX 12:46) (Not a bone of his should be broken).
Tại Anh quốc, một hội nghị nghiên cứu tấm vải liệm vào thập niên 1960 mang tên "Bristish society for the Turin shroud" do học giả Ian Wilson làm chủ tịch. Sau nhiều năm sưu tra xuất xứ của tấm vải liệm và nghiên cứu nhiều khía cạnh của đề tài, hội khoa học này cho xuất bản cuốn The Shroud of Turin - The burial cloth of Jesus Christ (272 trang, Double Day and Co. USA. 1978). Cuốn sách thuật lại cuộc đời lưu lạc của tấm vải liệm khá ly kỳ trong một thời gian kéo dài non hai mươi thế kỷ qua. Cuốn sách cũng đưa ra những ý kiến và những nhận xét của các nhân vật nổi tiếng về tấm vải liệm:
- Giáo Hoàng Paul VI cho biết Ngài đã đến kính viếng thánh tích vào năm 1931. Đối với Ngài, thánh tích là rất thật, rất sâu sắc, rất người và cũng rất thiêng liêng. Chúng ta không thể say mê thán phục và tôn kính một hình ảnh nào khác được. (It seemed to me so true, so profound, so human and so divine, such as we have been unable to admire and venerate in any other image).
- Văn hào Pháp Paul Clauded tuyên bố: "Một cái gì đó thật đáng sợ hãi và cũng tuyệt đẹp ẩn trong hình ảnh của Chúa mà người ta không thể làm gì khác hơn là tôn thờ Ngài . (Something so fightening and yet so beautiful lies in it that a man can only escape it by worship).
- Bác sĩ Anh, David Wills đã từng tham gia cuộc khảo nghiệm tấm vải liệm tuyên bố: "Các vết thương in trên tấm vải liệm rất phù hợp với những điều được nói trong Tân Ước. Các vết sưng trên mặt, má và mắt chứng tỏ Chúa đã bị đánh bằng tay (vả) trước khi bị đóng đinh".
- Tại Hoa Kỳ: Sự tổ chức công cuộc nghiên cứu tấm vải liệm tuy muộn nhưng lại rất qui mô với sự tham gia của nhiều ngành khoa học và với phương tiện kỹ thuật vừa dồi dào vừa tân tiến. Hoa Kỳ thành lập kế hoạch nghiên cứu mang tên "American Scientists and the Shroud of Turin Research Project". Kế hoạch này qui tụ các khoa học gia hàng đầu của Mỹ trong các ngành nguyên tử và không gian (NASA), 15 học giả chuyên về các vấn đề khoa học và 9 chuyên gia về lịch sử tôn giáo. Kết quả nghiên cứu của họ được báo cáo tại hội nghị họp tại Albuquerque New Mexico vào tháng 3.1977.
Ngày 8.10.1978, tất cả các hội nghiên cứu tấm vải liệm từ nhiều nước đã cùng qui tụ tại Turinđể phối hợp trong một nỗ lực chung nhằm khám phá sự thật về cái chết của Chúa Jesus. Riêng phái đoàn Hoa Kỳ có 25 nhà bác học và hàng tấn hóa chất và dụng cụ máy móc tối tân. Một số máy móc được chế tạo đặc biệt để dùng riêng cho cuộc giảo nghiệm này. Phía Tòa Thánh La Mã có một số khoa học gia đại diện như nhà vật lý học Luigi Gonella, chuyên gia kính hiển vi Giovani và nhà bệnh lý học Baina Bollone.
Tấm vải liệm được đưa đến tòa nhà rộng lớn Palazzo ở cạnh nhà thờ Turin và được đặt trên một cái bàn rất lớn có chắn kiếng an toàn. Tấm vải được phân ra 60 khu vực nghiên cứu. Sau hơn 2 tuần lễ làm việc miệt mài với tinh thần khoa học vô tư, các nhà khoa học hàng đầu thế giới đã đi đến những kết luận sau đây:
- Tấm vải được dệt bằng sợi bông Ai Cập tại Syria cách đây 2000 năm với kỹ thuật dệt theo hình xương cá trích (herring bone pattern).
- Các vết máu trên tấm vải liệm là máu người.
- Hình mặt người trên tấm vải liệm được cấu tạo bởi phản ứng hóa học và sự oxýt-hóa của chất nhờn da mặt (skin oil) mồ hôi, dầu aloe và dầu Myrrh đã thấm vào sợi bông lâu ngày mà thành.
- Người nằm trên tấm vải là người bị thương nặng và ở trong tình trạng hôn mê (coma) vì các vết máu trên tấm vải có hai loại. Loại máu khô từ trước khi được đặt nằm trên tấm vải và loại máu tươi chung quanh có vành huyết tương. Người chết không đổ loại máu này (chỉ có người bị thương mới có loại máu này).
- Các vết máu của đầu, cổ, lưng, mông, đùi và hai chân đều nằm trên một mặt phẳng chứng tỏ một tư thế nằm của người còn sống. Một người chết không thể có một tư thế nằm như vậy.
Trên đây là kết quả của một nỗ lực lớn lao của nền khoa học thế giới đã vén lên bức màn bí mật của đạo Kitô trong 2000 năm qua. Sự thật lịch sử đã được xác nhận: Jesus đã thoát chết sau khi bị đóng đinh trên đồi Golgotha, do đó chẳng có chuyện Chúa chịu chết để chuộc tội cho nhân loại. Cũng vì Jesus không chết nên cũng chẳng có chuyện Phục Sinh và lên trời với Đức Chúa Cha.
Tấm vải liệm xác Chúa là một thánh tích thiêng liêng và cao quí nhất của đạo Kitô suốt gần 2000 năm qua, nay bỗng một sớm một chiều trở thành một trái bom nổ chậm có nguy cơ phá nát giáo hội từ căn bản giáo lý. Khoa học quả là một tôn giáo chân chính duy nhất của chân lý! Khoa học đã làm cho những nhân vật bảo thủ ở Vatican vô cùng lo sợ và tính đến việc thủ tiêu thánh tích. Tuy nhiên, vì thánh tích này đã quá nổi tiếng và đã trở thành một báu vật lịch sử chứng minh cái tội gian dối vĩ đại của Kitô Giáo, nó luôn luôn được các giới khoa học và truyền thông quốc tế canh chừng. Vatican dù có muốn thủ tiêu thánh tích nầy cũng khó có thể thực hiện được. Các hãng thông tấn Reuter và UPI có những mật báo viên thường xuyên theo dõi sự an toàn của tấm vải liệm.
Nước Mỹ tuy sinh sau đẻ muộn nhưng đã và đang dẫn dầu thế giới trên lãnh vực khoa học. Cuộc giảo nghiệm quốc tế tháng 10.1977 nói trên đã đạt được kết quả vẻ vang phần lớn do công lao của các nhà khoa học Mỹ. Các báo chí Mỹ cực lực hoan nghênh kết quả của cuộc giảo nghiệm. Đài truyền hình ABC gọi cuộc giảo nghiệm quốc tế này là một nỗ lực lịch sử (a historic effort).
Ông William Deerfield, chủ bút tờ Guide Post viết: "Chúa Jesus đã để lại trong mộ của Ngài một hình ảnh màu vàng mờ nhạt trên tấm vải mong manh, nhưng đó là cả một tờ khai lý lịch về Ngài". (Jesus did leave something in the tomb on that First Easter Morning - a kind of affidavit).
Tu sĩ dòng Tên người Anh Herbert Thurston tuyên bố: "Bằng cớ khoa học đã làm sáng tỏ vấn đề là tấm vải liệm là thật và Jesus đã được Kitô hóa". (The scientific evidence makes abundantly clear that this shroud is not a fabricated fake and that Jesus was Christed).
Cơ quan Truyền Hình Công Cộng Hoa Kỳ (Public Television) thực hiện cuốn phim tài liệu mang tên "The Silent Witness" nói về cuộc giảo nghiệm quốc tế trên tấm vải liệm để phổ biến nhằm mục tiêu giáo dục quần chúng Hoa Kỳ.
Tạp chí National Geographic và Harper's magazine đã phát hành những số báo đặc biệt nói về tấm vải liệm nhân dịp lễ Phục Sinh trong tháng 4.1981 và tháng 4.1982.
Để đỡ bị mất mặt trước sức tấn công của giới khoa học và giới truyền thông quốc tế, vào tháng 10.1988, tòa tòa thánh Vatican tuyên bố tấm vải liệm là một vật giả mạo, được ngụy tạo trong thời trung cổ vào khoảng các năm từ 1260 đến 1390! Tòa thánh không dám công bố điều này tại Vatican mà chỉ công bố trong một cuộc họp báo thường tại London. Tuy nhiên, khi phủ nhận tính cách xác thực của tấm vải liệm, tòa thánh La Mã đã công nhiên xác nhận hai điều quan trọng về giáo lý:
1) Quyết định của Giáo Hoàng Julius II năm 1506 là sai lầm khi Ngài công nhận tấm vải liệm là thánh tích đích thực của Chúa Jesus và ra lệnh cho giáo hội làm lễ kính thánh tích vào ngày 4 tháng 5 hàng năm. Tòa thánh đã tự phủ nhận tín điều "giáo hoàng không thể sai lầm"!
2) Tòa thánh bác bỏ luận điểm khoa học cho rằng Chúa Jesus đã thoát chết sau khi bị đóng đinh trên đồi Golgotha. Nói khác đi, tòa thánh vẫn nhất mực cho rằng Chúa đã chết 3 ngày rồi sống lại và lên trời. Trong khi đó giáo lý dạy rằng Thiên Chúa là "Đấng Hằng Sống", chẳng lẽ "Đấng Hằng Sống" đã chết 3 ngày? Nếu đã không thể gọi Jesus là "Đấng Hằng Sống" thì tại sao lại có thể gọi Ngài là Thiên Chúa?
Sau cuộc họp báo tại London tháng 10.1988, tòa Thánh Vatican chính thức bãi bỏ ngày lễ kính thánh tích hằng năm vào ngày 4 tháng 5 do Giáo Hoàng Julius II lập ra từ 1506. Từ ngày 4.5.1999, tòa thánh ra lệnh đóng cửa vĩnh viễn nhà thờ Turin và cắt đứt nguồn lợi du lịch kếch xù của thành phố này. Những thế kỷ vinh quang của thành tích tấm vải liệm lịch sử đã chính thức cáo chung trong niềm tủi nhục bất ngờ của Công giáo La Mã.
Cuộc họp báo trơ trẽn của tòa thánh Vatican tổ chức tại Lodon tháng 10.1988 là nguyên nhân thúc đẩy hai tác giả Holger Kersten và Elma Gruber hoàn thành tác phẩm "The Jesus Conspiracy" (đã nói trong chương 6). Các tác giả gọi cuộc họp báo nói trên của tòa thánh là vụ bịp của thế kỷ (Fraud of the Century)!
 

Các chương khác trong sách:

Trang Charlie Nguyễn