GÓP Ý: Nhìn vào, các nước Quân-chủ Lập-hiến cùng thời
với VN dưới Triều Nguyễn . Từ Âu sang Á cho đến ngày nay,
quốc-gia nào đa số cũng đã vươn lên theo bước tiến văn-minh của thế-giới. Thời-thế
xô đẩy!!! Riêng trang sử cận-đại VN ‘’bi thảm’’ không
những cho giòng dõi Nguyễn-Phước-Tộc mà cả Dân-tộc VN cũng bị vạ lây và đến bao giờ mới
chấm dứt!!!???
Triệt-hạ Nhà Nguyễn là đưa VN như ‘’hổ mất đầu!!!
Một Nén Hương Lòng và một giọt nước mắt dâng lên Cựu-Hoàng
Bảo-Đại.
VânPhong
“Hoàng tử” Bảo Ân
|
NQL:
Công nhận quá nhiều chuyện bây giờ mình mới biết!
Nhiều người Việt Nam sống ở quận Cam nhiều năm nay nhưng ít người biết có một người con trai của Cựu Hoàng Bảo Ðại đang sinh sống tại nơi này.
Nhiều người Việt Nam sống ở quận Cam nhiều năm nay nhưng ít người biết có một người con trai của Cựu Hoàng Bảo Ðại đang sinh sống tại nơi này.
Ðó là ông Nguyễn Phước Bảo Ân,
con trai của bà Lê Phi Ánh, người vợ không hôn thú của cựu hoàng trong thời
gian ở Ðà Lạt. Bà Phi Ánh có hai người con với cựu hoàng là bà Nguyễn Phúc
Phương Minh sinh năm 1950 đã qua đời tại Mỹ cách đây vài năm và ông Bảo Ân,
sinh năm 1951, đang sống tại thủ phủ tỵ nạn, Westminster.
Chúng tôi không gọi ông Bảo Ân
bằng hoàng tử như trong văn bản triều đình mà gọi bằng “Mệ” theo lối xưng hô
trong hoàng tộc: Con gái, con trai của vua được gọi bằng Mệ, hàng cháu là “Mụ”
chứ không phải ai là Tôn Thất, Bửu, Vĩnh… đều được gọi bằng Mệ như nhiều người
đã lầm tưởng (1).
Ðiều đặc biệt không phải vì ông
là một hoàng tử lưu lạc, mà vì chính ông là người con nối dõi nhà Nguyễn. Cựu
hoàng có tất cả 5 người con trai: Con Hoàng Hậu Nam Phương là Bảo Long không có
vợ chính thức, Bảo Thăng không có con; con của Thứ Phi Mộng Ðiệp là Bảo Hoàng
chết khi mới 1 tuổi, Bảo Sơn mất khi ông 30 tuổi không có con.
Bảo Ân có hai con, gái là Nguyễn
Phước Thụy Sĩ, sinh năm 1976 và trai là Nguyễn Phước Quý Khang sinh năm 1977.
Như vậy, Nguyễn Phước Quý Khang là cháu đích tôn của Cựu Hoàng Bảo Ðại và chắt
của ngài là một cặp trai song sinh có tên là Nguyễn Phước Ðịnh Lai, Nguyễn Phước
Ðịnh Luân ra đời năm 2012.
“Mệ” Bảo Ân sinh năm 1951 tại
Ðà Lạt. Năm 1953, khi cựu hoàng sang Pháp, bà Phi Ánh đem hai con về sinh sống
trong một biệt thự trên đường Phùng Khắc Khoan tại Sài Gòn. Ông theo học trường
Saint Paul rồi Taberd.
Ngày 4 tháng 10 năm 1955, Thủ
Tướng Ngô Ðình Diệm lập ủy ban trưng cầu dân ý truất phế Quốc Trưởng Bảo Ðại,
và trở thành quốc trưởng. Theo lời kể của ông Bảo Ân, sau ngày đó, nhiều biệt
thự ở Sài Gòn, Ðà Lạt và Pháp của bà Phi Ánh đều bị tịch thu, bà và người nhà
được lệnh ra khỏi nhà trong vòng 24 tiếng đồng hồ. Nhiều người đã đến đục tường
ngôi nhà vì nghi có của cải cải cất giấu. Tài sản này là của tư hữu của bà Phi
Ánh, vì chúng ta cũng biết bà Phi Ánh là em vợ của Thủ Hiến Trung Phần Phan Văn
Giáo, sinh ra trong một gia đình giàu có, trong khi Cựu Hoàng Bảo Ðại rất
nghèo, trong thời gian sống rất khó khăn ở Pháp, phải nhờ sự yểm trợ của thân mẫu
là bà Từ Cung. Ðức Từ Cung đã phải bán nhiều cổ vật của Vua Khải Ðịnh để lấy tiền
gửi sang cho cựu hoàng.
Sau ngày cựu hoàng bị truất phế,
bà con, ngay cả bên gia đình của bà Phi Ánh cũng không ai muốn chứa chấp mẹ con
bà, ba mẹ con phải ở nhà thuê, rày đây mai đó.
Trong hoàn cảnh này, bà Phi Ánh
đành phải bước thêm bước nữa.
Khi nghe bà Phi Ánh đi lấy chồng,
theo đề nghị của nhiều người thân thuộc trong Hoàng Tộc, bà Từ Cung đem Bảo Ân
về Huế ăn học.
Chúng ta cũng biết thêm rằng,
ngày 25 tháng 8 năm 1945, khi thoái vị làm dân, Cựu Hoàng Bảo Ðại đã giao tất cả
cung điện như là tài sản của quốc gia, trừ Cung An Ðịnh tại làng An Cựu, nơi bà
Từ Cung sinh sống, là tài sản riêng, do lương bổng của Vua Khải Ðịnh xây dựng
nên. Sau đó, chính “công dân” Vĩnh Thụy, bà Nam Phương và các con đã về ở đó một
thời gian, trước gia đình tan rã, mỗi người một phương.
Cũng theo lời ông Bảo Ân, sau
khi truất phế Bảo Ðại, Cung An Ðịnh bị chính quyền tịch thu, bà Từ Cung trong
lúc đó đang đau yếu phải dọn ra một ngôi nhà nhỏ trong khuôn viên của cung. Tuy
vậy trong cuốn hồi ký của Vua Bảo Ðại, ông không hề có một lời trách móc oán hận
về chuyện bị đối xử tệ bạc này.
Tại Huế, ông Bảo Ân theo học tại
trường Thiên Hựu (Providence) do các linh mục quản nhiệm. Ông tâm sự rằng, tuy
sống trong một gia đình Phật Giáo thuần thành, ông lại phải theo học từ nhỏ đến
lớn tại các trường nhà dòng, nên ông còn thông thuộc kinh Thiên Chúa Giáo hơn một
người theo đạo Chúa khác.
Bà Phi Ánh thời xuân sắc.
(Hình: Tài liệu của ông Bảo Ân)
Sau thời gian ở Huế, Bảo Ân trở
lên Ðà Lạt rồi về Sài Gòn. Tới tuổi quân dịch, năm 1970, chỉ mới có bằng trung
học, ông vào quân trường Quang Trung, rồi phục vụ tại Trung Tâm 3-Tuyển Mộ Nhập
Ngũ Sài Gòn. Không hiểu vì lý do gì, năm 1972, ông Bảo Ân bị thuyên chuyển ra
SÐ3 tại Quảng Trị, nhưng khi ra đến nơi, sư đoàn đã tan hàng nên ông được trở về
đơn vị gốc.
Cố gắng đến trường, và cuối
cùng, trước khi Sài Gòn thất thủ, ông Bảo Ân là sinh viên năm thứ hai phân khoa
Thương Mại tại Ðại Học Vạn Hạnh, Sài Gòn.
Sau năm 1975, bà Phi Ánh sống
trong cô đơn tại Sài Gòn và qua đời vào năm 1984, ở tuổi 62. Cô Phương Minh, chị
ruột của ông Bảo Ân, lấy chồng và lập nghiệp ở Pháp, ly dị, trước tháng 4 năm
1975 về Sài Gòn thăm thân mẫu và bị kẹt lại đây, sau đó được bảo lãnh sang Hoa
Kỳ lập nghiệp và qua đời vào năm 2012. Phần ông Bảo Ân, lúc đó đã có gia đình
nên phải sống dưới chế độ cộng sản thêm nhiều năm nữa, cho đến 1992 mới được
gia đình bên vợ bảo lãnh sang Mỹ.
Hai nhân vật cuối cùng của
giòng Vua Bảo Ðại: Nguyễn Phước Ðịnh Lai và Ðịnh Luân (cháu nội của Bảo Ân).
(Hình: Tài liệu của ông Bảo Ân)
Cựu
Hoàng Bảo Ðại có gồm cả vợ và tình nhân là 8 người với 13 người con (tài liệu
đã được ông Bảo Ân hiệu đính):
Vợ:
1. Nam Phương Hoàng Hậu. Có hôn
thú, 5 con.
2. Bùi Mộng Ðiệp. Không hôn
thú, 3 con.
3. Lý Lệ Hà. Không hôn thú,
không con.
4. Hoàng Tiểu Lan. Không hôn
thú, 1 con gái.
5. Lê Thị Phi Ánh. Không hôn
thú, 2 con.
6. Vicky (Pháp). Không hôn thú,
1 con gái.
7. Clément. Không hôn thú.
8. Monique Marie Eugene Baudot.
Có hôn thú, không con.
Con:
*
Với Nam Phương Hoàng Hậu:
1. Thái Tử Nguyễn Phúc Bảo Long
(4-1-1936/28-7-2007)
2. Công Chúa Nguyễn Phúc Phương
Mai (1-8-1937).
3. Công Chúa Nguyễn Phúc Phương
Liên (3-11-1938).
4. Công Chúa Nguyễn Phúc Phương
Dung (5-2-1942).
5. Hoàng Tử Nguyễn Phúc Bảo
Thăng (9-12-1943).
(Bốn người con còn lại của Bà
Nam Phương hiện sống ở Pháp.)
*Với
Thứ Phi Mộng Ðiệp, hai người con đầu hiện ở Pháp:
1. Nguyễn Phúc Phương Thảo
(1946).
2. Nguyễn Phúc Bảo Hoàng
(1954-1955).
3. Nguyễn Phúc Bảo Sơn
(1957-1987), tử nạn tại Nhật.
*Với
Hoàng Tiểu Lan:
1. Nguyễn Phúc Phương Anh, hiện
sống ở Hawaii.
*
Với Lê Thị Phi Ánh:
1. Nguyễn Phúc Phương Minh
(1950-2012).
2. Nguyễn Phúc Bảo Ân (1951).
*
Với bà Vicky
1. Nguyễn Phúc Phương Từ
(Pháp).
“Họa
vô đơn chí!”
Bảo Ân đã trao cho chúng
tôi những trang nhật ký viết về cuộc sống của ông sau ngày 30 Tháng Tư 1975:
Ngày 30 Tháng Tư, nóng lòng vì
không có tin tức gì của Ðức Bà Từ Cung ở Huế, tôi ở lại Sài Gòn để ngóng tin
nên đã bỏ lỡ chuyến bay ra Hạm Ðội 7. Sau vài tuần đi ‘học tập cải tạo’ trở về,
Ủy Ban Quân Quản đến nhà tôi ở 213 Công Lý Q.1 yêu cầu chị Phương Minh và tôi
phải dọn ra trong vòng 24 tiếng đồng hồ vì họ nói nhà này của tướng cảnh sát
‘ngụy’ Nguyễn Ngọc Loan.
Bức
hình giống phụ hoàng nhất của “Mệ Bửu Ân”. (Hình: Tư liệu của gia đình)
Tôi không biết Thiếu tướng Nguyễn
Ngọc Loan có ở đây không? Thật ra biệt thự này ngày xưa là của Ðức Bà Từ Cung
(mẹ Vua Bảo Ðại), ngài mua để khi vào Sài Gòn có nơi trú ngụ. Năm 1957 sau khi
truất phế Vua Bảo Ðại, chánh quyền Ðệ Nhất Cộng Hòa đã tịch thu và sau này được
Quốc Hội Ðệ Nhị Cộng Hòa với sự vận động tích cực của Trung Tướng TNS. Tôn Thất
Ðính, chính quyền đã giao trả lại cho Ðức Bà Từ Cung và ngài ra lệnh lấy căn
nhà trước lập bàn thờ Ðức Gia Long và văn phòng liên lạc bà con Nguyễn Phước Tộc,
còn căn phía sau thì cho chị em chúng tôi ở.
Giấy tờ nhà đất chưa hoàn tất
thì biến cố 1975 xảy ra nên không có cái gì để chứng minh là nhà này của gia
đình chúng tôi. Vậy là hai chị em mau mau thu xếp đồ đạc, những gì có thể mang
được gì thì mang, còn những gì nặng nề không thể mang được thì bỏ lại như tủ lạnh,
bàn ghế tủ giường và nhiều thứ khác. Chị em chúng tôi về nhà Me chúng tôi ở nhờ.
Vào một buổi sáng thức dậy xuống
nhà lấy vài vật dụng để xài, tôi không thấy cái vali quần áo mà tôi đã đem ra
được khỏi nhà 213 Công Lý để về đây, đó là cái vali độc nhất của tôi còn lại,
nay không cánh mà bay. Cuối cùng tôi tìm thấy một cái thư của chị giúp việc cho
Me tôi để lại, đại ý trong thư chị ta viết, trong hoàn cảnh này, chị cần một số
vốn để buôn bán nuôi con nên đã lấy cái vali trốn đi, và mong tôi tha thứ cho
chị. Thế là tay trắng hoàn trắng tay, đành phải đi mua thêm quần áo để mặc.
Sống ở nhà Me tôi cho đến năm
1978 thì Me tôi bị quy vào diện tư sản, bị cưỡng chế ra khỏi nhà và buộc phải
đi kinh tế mới trên cao nguyên. Vì không thể sống ở nơi rừng thiêng nước độc
nên cả nhà đều bỏ trốn về Sài Gòn, mỗi người đi mỗi nơi, trốn chui trốn nhủi,
không hộ khẩu, không chứng minh nhân dân, sống như những kẻ bất hợp pháp. Me và
chị Phương Minh thì sống lén lút trong nhà dì Phi Hoa (vợ ông cựu Thủ Hiến Phan
Văn Giáo), còn tôi thì ở nhờ nhà mẹ vợ, mỗi tháng đều phải chi tiền cho công an
khu vực nhưng vẫn lo sợ bị bắt, nên ban ngày thì ngủ còn ban đêm thì mở mắt
trao tráo để canh chừng công an gõ cửa xét hộ khẩu thì lo leo sang nhà bên cạnh
trốn cho mau.
Me tôi rất lo lắng sợ tôi bị bắt,
bà nói “Me và chị Phương Minh là đàn bà con gái, chắc không ai bắt đâu, còn con
là con trai, mà là con Vua Bảo Ðại nữa, ở đây nguy hiểm lắm.” (Lúc đó chánh quyền
đang tuyên truyền nói xấu nhà Nguyễn.) Me tôi ép tôi phải ra đi, bà gom góp,
vay mượn cho chúng tôi vàng để tìm đường vượt biên.
Tôi đi vượt biên tổng cộng ba lần,
cả ba lần đều bị lừa, hai lần vợ chồng con cái cùng đi, sau cùng hết tiền, Me
tôi chỉ còn đủ cho một mình tôi đi thôi, nhưng cũng bị lừa luôn, tuy nhiên cũng
còn may mắn vì chỉ bị mất vàng chứ không bị bắt vào tù.
Hết tiền, bà và chị Phương Minh
đem nhẫn kim cương đi bán thì bị cướp lấy mất, chúng còn xô chị Minh té trầy cả
mình mẩy. Tôi không dám làm phiền Me tôi nữa, vợ chồng tôi bàn với nhau coi ra
chợ trời xem thử có thể buôn bán gì được không? Thế là tôi bán luôn hai chiếc
nhẫn vàng, đó là quà kỷ niệm của Me tôi tặng khi tôi tốt nghiệp trung học và một
chiếc khi tôi vào đại học.
Gian
nan chốn chợ Trời
Vợ chồng tôi bắt đầu ra chợ trời
kiếm sống bằng cách mua đi bán lại, các bạn hàng ngoài chợ trời thấy hai khuôn
mặt ngơ ngơ ngác ngác, họ biết hai con nai này mới ra giàn, nên họ có những món
hàng mua cả năm rồi mà không bán được, dân Chợ Trời gọi là “hàng ngậm,” họ giả
dạng cho người khác đem đến bán cho chúng tôi, ham rẻ chúng tôi mua vô và sau
đó có những món hàng chúng tôi “ngậm” cho đến ngày đi Mỹ vẫn còn trong nhà.
Gia
đình “Mệ” Bảo Ân trong thời gian lăn lóc Chợ Trời. (Hình: Tư liệu của gia
đình)
Thấy coi bộ bán Chợ Trời không
khá, một dịp đi thăm người bà con ở Q.11, được biết người bà con này có phần
hùn trong một xưởng sản xuất nước tương, vợ tôi mới bàn với tôi đổi cách làm bằng
nghề đi bỏ mối ở chợ Bến Thành. Thế là vợ chồng tôi lại chuyển qua nghề bỏ mối
nước tương, chúng tôi mua nước tương rồi thuê xe ba bánh chở từ Phú Thọ Hòa đến
chợ Bến Thành.
Tôi đứng ở ngoài giữ hàng, còn
vợ tôi thì đẩy hàng vào chợ giao cho khách hàng, cô ấy không cho tôi vô chợ vì
sợ gặp người quen. Bỏ mối nước tương một thời gian, chính quyền không cho xe ba
bánh lưu thông những con đường chính trong trung tâm thành phố, vả lại tôi thấy
vợ tôi khiêng nặng và cực nhọc quá mà chẳng kiếm được bao nhiêu nên vợ chồng
tôi bàn nhau đổi nghề một lần nữa.
Số là khi đi lấy nước tương bỏ
mối, chúng tôi thấy trong khu vực này có vài xưởng làm dép cao su, bỏ mối dép
cao su nhẹ nhàng hơn, thế là vợ chồng tôi đến nói chuyện và xin mua về để bán.
Lúc đầu họ bảo chúng tôi phải đợi đến khi nào họ giao cho khách hàng cũ của họ
xong, nếu còn dư họ sẽ bán cho chúng tôi. Cả tháng trời, mỗi ngày chúng tôi phải
chờ đợi 3-4 tiếng đồng hồ mà chỉ lấy được vài lố (12 đôi) dép, rồi chúng tôi
đem những lố dép đó giao lại cho các tiệm bán dép ở chợ Ðại Quang Minh, Chợ lớn.
Sau một thời gian quen rồi, chủ
hãng giao cho chúng tôi nhiều hơn và bạn hàng ở chợ, họ cũng đặt hàng nhiều
hơn. Có hôm chúng tôi bán được hơn năm mươi lố dép. Những người lấy mối dép như
chúng tôi thấy chúng tôi được chủ hãng giao cho một số lớn, họ ganh tỵ, kiếm
chuyện gây sự và dọa đánh chúng tôi, bọn họ thì đông, còn chúng tôi chỉ có hai
vợ chồng. Bán dép thì nhẹ nhàng hơn nước tương, cũng kiếm tiền khá hơn nhưng
bây giờ chúng tôi cảm thấy không còn an toàn nữa, mỗi lần đi lấy hàng phải nhìn
trước ngó sau xem có ai phục kích mình không?
Tôi thì lo cho vợ tôi, nhưng
ngược lại nàng nói nàng không sợ mà chỉ sợ cho tôi. Cô ấy nói nếu tôi có mệnh hệ
nào thì Me tôi sẽ oán trách cô ấy, vì ngay cả chuyện đi bán Chợ Trời, bỏ mối nước
tương hay dép chúng tôi đều giấu mẹ tôi. Nghĩ mình đang sống bất hợp pháp,
không có một tờ giấy lận lưng, nay đi gây chuyện với người ta, công an mà bắt
được thì đi tù là cái chắc, nên vẫn trông có dịp kiếm cách khác làm ăn.
Trong một dịp tình cờ đi ngang
qua đường Nguyễn Thái Bình, Q.1, tôi gặp lại anh bạn thương phế binh tên Quân,
con Ðại Úy Hải, trưởng ban an ninh trong Quân Trấn, mà chúng tôi quen nhau trước
1975. Nhà anh ở trong Quân Trấn, Sài Gòn-Chợ Lớn, nơi trước kia tôi làm việc.
Hiện nay, anh đang mua bán đĩa nhạc trên lề đường Nguyễn Thái Bình. Kỳ này tôi
nói vợ tôi ở nhà chăm sóc con cái, để tôi ra gặp và hùn vốn với Quân.
Sáng chúng tôi đứng ở Nguyễn
Thái Bình để thu mua đĩa, chúng tôi chỉ mua nhạc hòa tấu thôi, buổi chiều thì
chúng tôi đi xe bus đến các quán cafe nhạc ở Sài Gòn-Chợ Lớn-Gia Ðịnh để bán.
Thời gian này, nhà nước chỉ cho phép các quán cafe mở nhạc không lời mà thôi,
nên các đĩa nhạc hòa tấu càng ngày càng khan hiếm khó mua. Chúng tôi lại xoay
qua buôn bán đủ thứ, cái gì có lời là chúng tôi mua vào.
“Công
Chúa” Phương Minh và “Hoàng Tử” Bảo Ân bên cạnh mẹ trong thời gian thơ ấu ở Ðà
Lạt. (Hình: Gia đình cung cấp)
Tôi có một kỷ niệm không bao giờ
quên được là, có một lần con trai tôi là Quý Khang đòi theo cha ra chợ Trời
chơi, lúc đó Quý Khang mới ba tuổi, đến trưa Quý Khang buồn ngủ, tôi đang bận
coi hàng nên không thể chở Khang về, nên trải tạm tờ báo ra lề đường cạnh chỗ
tôi ngồi bán hàng để cháu nằm ngủ. Nhưng xui xẻo làm sao, đúng lúc đó công an
và quản lý thị trường đem xe đến hốt những người chiếm lòng lề đường để buôn
bán, thương binh Quân thì tàn tật không chạy nhanh được nên tôi phải phụ Quân
gom hàng chạy cho nhanh, nếu họ bắt được thì hàng mất, còn tôi chắc cuộc sống của
tôi cũng bi đát luôn, quýnh quáng quá lo chạy, nên bỏ quên thằng con đang nằm
ngủ ngon lành trên lề đường. Lúc đó đường Nguyễn Thái Bình vắng tanh không còn
một bóng người, chỉ còn Quý Khang đang nằm ngủ trên tờ báo, đúng như thành ngữ
“đem con bỏ chợ!”
Quân theo gia đình đi Mỹ theo
diện H.O. trước chúng tôi. Sau này qua Mỹ gặp lại anh ở Garden Grove, Quân nhỏ
tuổi hơn tôi, chưa lập gia đình vẫn ở với cha mẹ, anh bị tàn tật nên cũng khó lấy
vợ, còn gia đình tôi ở Westminster, lâu lâu Quân đến nhà tôi ăn cơm, ngồi ôn lại
những ngày tháng vui buồn chợ Trời. Tiếc là ngày nay Quân đã ra người thiên cổ.
Gian
nan những chuyến đi
Khoảng cuối năm 1975, bà Phi
Ánh vào Tòa Ðại Sứ Pháp tại Sài Gòn, yêu cầu xin cho toàn gia đình (gồm cả chồng,
con riêng và con của cựu hoàng) được đi Pháp. Ít lâu sau, qua ông đại sứ Pháp,
Cựu Hoàng Bảo Ðại chỉ chấp thuận cho bà Phi Ánh và hai con sang đoàn tụ và tòa
đại sứ đã nhanh chóng cấp Laissez-Passer cho bà Phi Ánh, Phương Minh và Bảo Ân.
Tuy nhiên, Phương Minh đã có thời gian sống ở Pháp, nói rằng đời sống ở Pháp rất
khó khăn, và tuy vì tình thương con, cựu hoàng thật ra không đủ khả năng bảo trợ
nuôi dưỡng ba người. Mặt khác gia đình của bà Phi Ánh không thể chia cắt như thế,
và Bảo Ân cũng không thể bỏ vợ con ở lại, nên chuyện ra đi không thành.
Ông
Bảo Ân và Thứ Phi Mộng Ðiệp trước tranh vẽ Cựu Hoàng Bảo Ðại (Paris 2004)
Năm 1978, người chồng sau của
bà Phi Ánh vượt biên sang Mỹ thành công, gửi giấy bảo lãnh về, nhưng lúc ấy Bảo
Ân đã có gia đình, không đủ điều kiện ra đi. Trong khi chờ đợi đi Mỹ, bà Phi
Ánh mắc bệnh ung thư và qua đời năm 1984. Năm 1985, bà Phương Minh và các con
riêng của bà Phi Ánh đi định cư ở Mỹ.
Mãi đến năm 1992, gia đình ông
Bảo Ân được gia đình bên vợ bảo lãnh, sang Mỹ và định cư tại quận Cam từ đó đến
nay. Những năm đầu tiên, cũng như bao nhiêu người mới sang khác, bà Bảo Ân phải
ngồi shop may suốt ngày, ông làm trong một hãng in áo T-shirt và về sau sang
làm cho một hãng Nhật chuyên sản xuất CD tại Garden Grove.
Con trai ông Bảo Ân, cháu đích
tôn của Cựu Hoàng Bảo Ðại, Nguyễn Phước Quý Khang tốt nghiệp UCI về ngành
thương mãi và hiện làm cho một công ty ngoại quốc ở Sài Gòn.
Xây
mộ cho phụ hoàng
Gia đình Bảo Ân đến Mỹ năm 1992
nhưng vì thất lạc hồ sơ nên đến năm 2005 gia đình mới có quyền công dân. Cầm
passport trong tay, quốc gia đầu tiên mà ông muốn đến là Pháp, để thăm mộ cha,
điều mà ông mơ ước từ lâu, nhưng chưa có cơ hội thực hiện. Ông Bảo Ân đã liên lạc
với một người bạn ở Paris là Ðặng Văn Phụng, nhờ vợ chồng người này đi xem thử
tình trạng ngôi mộ của Vua Bảo Ðại hiện nay tại nghĩa trang Passy thuộc hạt
Trocadero Paris 16e ra sao. Theo lời kể của ông Bảo Ân, người bạn này suốt một
ngày đi tìm, đọc hết các tấm bia mộ mà không không thấy, nghi ngờ rằng cựu
hoàng không được chôn cất tại đây. Ông Bảo Ân gợi ý cho người bạn là nên đi tìm
người gác nghĩa trang để hỏi, mặc dầu với bản sơ đồ trong tay, cuộc tìm kiếm
cũng không kết quả. Một lần khác, trong khi đang đứng gần ngôi mộ của cựu
hoàng, người bạn này tình cờ gặp và hỏi một người cảnh sát già về ngôi mộ của
“Sa Majesté Bảo Ðại,” thì ông này chỉ ngay vào ngôi mộ gần đó. Ðó là một ngôi mộ
không có bia, không khắc tên, chỉ trơ trọi hai tấm “đan” xi măng sần sùi, với mấy
chậu hoa đã quá cũ kỹ qua thời gian. Người bạn của anh nhìn xuống ngôi mộ mà bật
khóc. Nơi yên nghỉ của một ông vua mà như thế này sao?
Ông Bảo Ân hồi tưởng: “Nghe anh
kể mà tôi khóc nức nở, thật là tội nghiệp cho cha tôi, cha nằm đó lạnh lẽo như
một kẻ vô danh đã 8 năm rồi, không ai biết để thắp một nén nhang cho cha ấm
lòng.”
Ông
Bảo Ân ngậm ngùi trước ngôi mộ đơn sơ của cha
Nghĩa trang Passy ở Paris là một
nghĩa trang nổi tiếng được xây dựng từ đầu thế kỷ XIX, nơi chôn cất nhiều nhân
vật lừng danh của thế giới như tài tử phim hài Fernandel (1903-1971,) nhà văn
Virgil Gheorghiu (1916-1992,) họa sĩ Edouard Manet (1832-1883,) người sáng lập
công ty xe hơi Marcel Renault (1872-1903,) Tổng Thống Pháp Alexandria Millerand
(1859-1943)… Cũng theo lời kể của ông Bảo Ân, Vua Bảo Ðại không tiền và cũng
không có thế lực để được chôn cất tại đây, đây là phần mộ của một thương gia
giàu có ở Paris, rất kính trọng cựu hoàng, khi nghe ông qua đời đã hiến phần đất
này cho ngài.
Về việc xây mộ cho Cựu Hoàng Bảo
Ðại, khi ông từ trần ở Paris, chỉ có người vợ cuối cùng của ông là bà Monique
Baudot, người Pháp ở bên cạnh, và trên pháp lý, chỉ có bà Monique, người vợ có
hôn thú còn sống mới có quyền xây mộ cho ngài. Theo sự hiểu biết của ông Bảo
Ân, bà Thứ Phi Mộng Ðiệp và các con tuy có tiền nhưng lại không muốn giao cho
bà Monique xây mộ. Lúc sinh thời, Thái Tử Bảo Long không làm được, gia đình bên
các công chúa không làm được, phía Nguyễn Phước Tộc cũng không làm được vì
không có sự đồng ý của bà Monique, thậm chí hội này có quyên góp và giao lại
cho bà Monique một số tiền để xây mộ nhưng không có kết quả… Nhiều người giàu
có muốn xây mộ cho Vua Bảo Ðại để lấy tiếng cũng bị bà Monique cản trở.
Ông Bảo Ân rất xúc động và đau
lòng khi nghe người bạn từ Paris mô tả những gì về ngôi mộ này, nên muốn nhờ
người bạn đi kiếm người làm một tấm plaque khắc tên Vua Bảo Ðại đặt trên ngôi mộ
và sau này có thể xúc tiến việc xây mộ cho ngài. Người bạn tìm đến ông Nguyễn
Duy Hiệp, một người Việt, có dịch vụ chuyên lo về thủ tục mai táng của thành phố
Paris. Ông này khi nghe nói đến có một người con cựu hoàng hiện ở Mỹ có quan
tâm đến ngôi mộ, ông rất cảm kích và ngỏ ý ông sẽ liên lạc với bà Monique để có
thể tiến hành việc xây mộ. Ông Nguyễn Duy Hiệp giải thích là bà Monique có nhờ
ông quyên tiền để xây mộ cho cựu hoàng, nhưng trong ba năm, ông chỉ nới quyên
được 1,200 Euros, vậy nếu “Mệ” Bảo Ân có khả năng làm được, “thì mời sang
Paris, chúng ta sẽ bàn tiếp”.
Một chủ công ty mộ bia ở Paris
là ông Cridel thấy hoàn cảnh của Cựu Hoàng Bảo Ðại đáng thương nên đã gặp bà
Monique, và điều đình với bà, nếu bà bằng lòng thì ông sẽ thực hiện bản vẽ và
ông sẽ giúp 50% phí tổn xây cất. Ông Nguyễn Duy Hiệp cũng góp lời thuyết phục,
cuối cùng bà Monique đồng ý và giao cho ông Hiệp gây quỹ trong bà con cộng đồng
Việt Nam.
Ông
Bảo Ân và con trai, Quý Khang, cháu đích tôn của Cựu Hoàng Bảo Ðại bên ngôi mộ
mới vừa hoàn thành.
Gây
quỹ
Tốn phí cho công trình xây mộ ước
tính ban đầu là khoảng 25,000 Euros. Công ty Cridel chịu 50%, ông Nguyễn Duy Hiệp
quyên được 3,000 và cá nhân ông đóng thêm 1,000, chùa Tịnh Ðộ đóng góp 1,000,
các vị đạo hữu Cao Ðài cho được 400. Số tiền còn lại do các vị trong cộng đồng
Việt Nam đóng góp. Xúc động nhất là có 1 cháu gái gởi tới 5 Euros kèm theo bức
thư đại ý là cháu còn đi học không có nhiều tiền nhưng thấy thương ông vua của
mình quá nên xin được đóng góp để xây mộ cho ngài. Như vậy còn thiếu khoảng
9,000 Euros cho nên việc xây mộ đã chờ đợi hơn 3 năm nay rồi mà không thực hiện
được. Sau sự tường trình của ông Nguyễn Duy Hiệp, ông Bảo Ân hứa sẽ cung cấp số
tiền còn lại. Ông Bảo Ân cũng cho chúng tôi biết, qua Mỹ phải làm ăn vất vả,
không có tiền, tuy vậy ông đã “cà” tất cả thẻ “credit” ông có mới có đủ tiền
xây mộ cũng như trang trải tốn phí cho những chuyến đi sang Pháp.
Năm 2005, ông Bảo Ân qua đến
Pháp, việc đầu tiên là đến gặp ông Cridel để xem bản vẽ, để xem có cần sửa chữa
gì không? Ghi khắc tên tuổi của cựu hoàng trên bia đá như thế nào? Ðể khắc chữ
bằng vàng trên bia mộ, phải tốn thêm 2,200 Euros. Sau khi bà Monique chấp thuận,
ông Cridel sẽ cho xúc tiến xây mộ ngay lập tức, và khi nào hoàn tất, ông sẽ báo
cho ông Bảo Ân trở qua Pháp để tổ chức lễ tưởng niệm và cầu siêu cho cựu hoàng.
Khi được thông báo công việc êm
xuôi, cuối năm 2006, ông Bảo Ân trở lại Paris. Ông “chạm trán” bà Monique tại phần
mộ của cựu hoàng. Bà Monique nổi tiếng là khó khăn, câu nói đầu tiên của bà
Monique khi nhận ra Bảo Ân là “mắng” ông sao sang Paris mà không đến thăm viếng
bà theo phép lịch sự, trong khi đó lại đến thăm bà Mộng Ðiệp. Ông Bảo Ân đành lấy
lý do ông không rành tiếng Pháp và không biết đường sá.
Bà Monique cũng than phiền là
các con Vua Bảo Ðại “làm phiền bà quá nhiều!”
Việc ông Bảo Ân xây được mộ cho
cựu hoàng cũng là do duyên định, hình như vua cha dành cho ông vinh dự này vì gần
10 năm nay, không ai có thể thuyết phục được bà Monique để cho họ xây mộ của
Vua Bảo Ðại, trong khi chính bà lại không có tiền hay không muốn xây mộ.
Bốn
chữ “Bảo Ðại Sắc Tứ” được khắc trên đầu bia mộ.
Ngoài các dòng chữ do ông Bảo
Ân soạn khắc trên bia mộ, bà Monique đã quyết định là khắc thêm hình ảnh kim
khánh bốn chữ “Bảo Ðại Sắc Tứ”(*) khắc trên tấm bia, mà có lẽ những người làm
bia mộ, không ai biết ý nghĩa của nó. Trước ngày khánh thành, ông Bảo Ân cho bà
Monique hay là ông sẽ đem lá cờ vàng ba sọc đỏ vào treo trước ngôi mộ, vì đây
là lá cờ ngày 2 Tháng Sáu năm 1948, chính phủ của Quốc Trưởng Bảo Ðại (với Thủ
Tướng Nguyễn Văn Xuân) đã chính thức dùng làm quốc kỳ của quốc gia Việt Nam. Cuộc
thương thảo bất thành vì bà Monique không bằng lòng và de dọa sẽ gọi cảnh sát
can thiệp nếu ông Bảo Ân đem lá cờ VNCH vào lễ khánh thành.
Con trai của cựu hoàng phản đối
bằng cách không đến tham dự lễ khánh thành ngôi mộ của cha, và bài diễn văn soạn
sẵn, với tư cách là đại diện của gia đình Vua Bảo Ðại, để cám ơn các quan khách
và hội đoàn người Việt tại Paris, sẽ không bao giờ còn cơ hội để đọc nữa.
Ngày khánh thành mộ cựu hoàng
có đủ các chức sắc thành phố, các hội đoàn người Việt ở Paris, nhưng lại vắng
bóng các “Mệ” con của Vua Bảo Ðại, ngoài lý do trên của Bảo Ân, không ai muốn gặp
mặt bà Monique. Ông Bảo Ân cho biết lý do, nếu ai đến, tức là đã công nhận bà
Monique trong vai trò người vợ chính thức của nhà vua, đó lại là điều tất cả mọi
người không ai muốn.
Ghi chú:
(*) Theo nhà biên khảo Võ Hương
An, 4 chữ “Bảo Ðại Sắc Tứ” khắc trong kim khánh trên bia của lăng Vua Bảo Ðại tại
nghĩa trang ở Paris, nhìn thì đẹp nhưng không có nghĩa. Hai chữ sắc tứ (hay có
khi là ân tứ) được dùng khi vua ban thưởng một vật gì đó cho bầy tôi; ở đây,
Vua Bảo Ðại đã là vua rồi thì không viết “Bảo Ðại Sắc Tứ” được. Nếu muốn trang
trí thì nên ghi “Bảo Ðại Hoàng Ðế”.
Trong bài báo này chúng tôi
dùng tiếng “mộ” để chỉ nơi an nghỉ của Cựu Hoàng Bảo Ðại. Nhưng theo sách vở
triều Nguyễn, mộ của Hoàng Ðế, Hoàng Hậu, Thái Hậu được gọi là “lăng,” còn
ngoài ra, dân thường và quan lại, dù đến nhất phẩm triều đình cũng chỉ được gọi
là “mộ.”
Những
đoạn đời gian truân
Ông Bảo Ân nhớ lại: Nếu không
có chuyện tịch thu tài sản và nhà cửa của bà Phi Ánh, mẹ ông, thì không có cảnh
gia đình tan tác, mẹ con mỗi người mỗi ngả và lâm cảnh túng bấn.
“Cuộc đời đôi khi giống như một
vở kịch.” Ông Bảo Ân tâm sự: “Ngày hôm đó thật là một ngày buồn thảm đáng ghi
nhớ, trời đã tối rồi mà ba mẹ con chúng tôi vẫn chưa tìm ra chỗ để dung thân,
đi tới đâu ai cũng khéo léo từ chối, không ai còn muốn dính dáng tới chúng tôi
nữa. Ông ngoại nói với dì Phi Hoa để cho chúng tôi tạm trú, mặc dầu gia đình bà
cũng đang lâm vào hoàn cảnh khó khăn vì có liên hệ đến Quốc Trưởng Bảo Ðại như
chúng tôi.
Một thời gian khi thấy tình
hình bên ngoài tạm yên, Me tôi quyết định cho chúng tôi đi học lại. Me tôi nhờ
ông ngoại đến trường ghi danh cho chúng tôi, nhưng ông ngoại tới đâu, sau khi
xem ‘lý lịch’ họ đều khéo léo từ chối, mà không nói lý do. Chị em chúng tôi
đành phải ở nhà chơi một năm không đến trường. Sau đó chúng tôi phải tìm giải
pháp là làm lại giấy khai sinh, lấy họ mẹ, từ dòng dõi nhà Nguyễn đổi thành con
cháu họ Lê. Chúng tôi đã trở thành con người mới, không còn dính líu gì đến chế
độ cũ nữa, có thể gọi là ‘chối bỏ nguồn gốc để tồn tại!’”
Trong thời gian này, bà Phi Ánh
cũng không dám liên lạc với Ðức Từ Cung vì sợ bị lộ tung tích, vì dầu sao Bảo
Ân cũng là giọt máu của cựu Hoàng Bảo Ðại duy nhất đang sống tại Việt Nam.
Ông Bảo Ân tiết lộ, tên thật của
ông do bà Từ Cung đặt cho ông khi mới sinh ra đời là Bảo Khương. Khi làm lại giấy
khai sinh, ông đã đổi tên Bảo Ân và lấy họ mẹ. Sau này khi bà Từ Cung và cựu
Hoàng Bảo Ðại biết chuyện này, cũng đã rất thông cảm.
Năm 1964, bà Từ Cung đem Bảo Ân
ra Huế ở với bà để đi học, cho đến năm 1968, khi biến cố Mậu Thân xảy ra, sau
khi Việt Cộng rút ra khỏi Huế, bà Phi Ánh lo sợ cho con, nên đã nhờ một người
trong Nguyễn Phước Tộc là ông Bửu Nghi, xin với Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ một
chiếc trực thăng để đưa Bảo Ân từ sân Phú Văn Lâu lên phi trường Phú Bài, và từ
đây ông đi theo máy bay C.130 chở tử sĩ và thương binh về Sài Gòn. Mười hai năm
sau, 1980, “Mệ” Bảo Ân và chị là Phương Minh đã trở lại Huế để thọ tang bà nội
là Ðoan Huy Hoàng Thái Hậu, tức là Ðức Bà Từ Cung.
Việc
tịch thu tài sản của gia đình Quốc Trưởng Bảo Ðại
Nhiều người biết chuyện Quốc
Trưởng Bảo Ðại bị ông Ngô Ðình Diệm truất phế trong cuộc “trưng cầu dân ý” vào
ngày 23 Tháng Mười năm 1955, nhưng ít ai biết đến việc tài sản của toàn gia
đình những người liên hệ với Quốc Trưởng Bảo Ðại (kể cả vợ không hôn thú) và của
các ông Vĩnh Cẩn, Nguyễn Ðệ đều bị tịch thu. Thân mẫu của Quốc Trưởng Bảo Ðại,
Ðức Từ Cung phải dọn ra khỏi Cung An Ðịnh.
Câu hỏi của chúng tôi đối với
ông Bảo Ân là, phải chăng việc tịch thu tài sản này là do cấp dưới, tùy tiện,
“lấy điểm” mà không phải do chủ trương, chính sách của cấp trên?
Công
báo VNCH ngày 22 Tháng Ba 1958.
Ông Bảo Ân đã cho chúng tôi xem
một tài liệu cũ mà ông đã lưu giữ từ 56 năm qua, tờ Công Báo Việt Nam Cộng Hòa
ngày Thứ Bảy 22 Tháng Ba 1958, ấn hành bởi tòa tổng thư ký Phủ Tổng Thống, “bảng
phụ đính vào quyết định số 400.BTC/DC ngày 14 Tháng Ba 1958 của ông bộ trưởng
tài chánh chỉ định những tài sản của Bảo Ðại và bộ-hạ đặt dưới đạo luật số
17/57 và 16-2-1957 và sắc lệnh số 122-TC ngày 27-02-1958 chỉ định tài sản tịch
thu” của:
– Vĩnh Thụy tức Bảo Ðại.
– Marie Jean Nguyễn Hữu Hào, tức
Nguyễn Thị Lan, tức Nam Phương Hoàng Hậu, vợ chính thức của Bảo Ðại. – Bùi Thị
Mông Ðiệp hay Bùi Mộng Ðiệp, vợ không chính thức của Bảo Ðại.
– Lê Thị Phi Ánh hay Lê Phi
Ánh, vợ không chính thức của Bảo Ðại.
– Hoàng Thị Lang (hay Lan) tức
Wong Y Lang, tức Jenny, vợ không chính thức của Bảo Ðại.
– Vĩnh Cẩn (anh em chú bác và
là người thân cận với cựu hoàng, thường được gọi là Hoàng Tùng Ðệ) và vợ chính
thức là Nguyễn Hữu Thị Bích Tiên.
– Nguyễn Ðệ (đổng lý văn phòng
quốc trưởng ở Paris) và vợ là Bùi Thị Mão.
Tài sản bị chỉ định tịch thu gồm
có bất động sản như nhà cửa, lâu đài, biệt điện, đồn điền, các sở đất, các kho
chứa hàng, tất cả khí mãnh, dụng cụ trang bị cho các cơ sở trên, số tồn khoản tại
các nhà băng, các cổ phần trong các công ty, các số nợ cho người khác vay, các
loại xe hơi…
Chúng ta cũng biết là sau khi
Quốc Trưởng Bảo Ðại bị truất phế, An Ðịnh Cung, diện tích 16,584 m2, tọa lạc tại
bờ sông An Cựu Huế, tư sản của Vua Khải Ðịnh, không phải của triều đình nhà
Nguyễn, đã bị chỉ định là tài sản tịch thu của “Vĩnh Thụy tức Bảo Ðại”. Thoạt đầu
Ðức Từ Cung phải dọn qua tạm trú tại nhà thờ Kiên Thái Vương, trong khuôn viên
Cung An Ðịnh Cung, và sau đó ra ở tại ngôi nhà ở địa chỉ 79D Phan Ðình Phùng, gần
chợ An Cựu cho đến khi bà qua đời.
Sống
lưu vong, chết nghèo khó
Theo lời kể của thứ phi Mộng Ðiệp
với ông Bảo Ân, cuối năm 1955, sau khi bị truất phế, bề ngoài không ai biết cựu
hoàng nghĩ gì, nhưng theo bà, ông đã có một thời gian bị trầm uất, mất ngủ và
phải dùng thuốc an thần. Ông nói là ông rất lo cho Ðức Từ Cung. Sau này nghe
tin Ðức Từ Cung bị đuổi ra khỏi Cung An Ðịnh, cựu Hoàng Bảo Ðại lại càng lo
hơn, tối không ngủ được. Cựu hoàng hút thuốc lá liên miên, và thường bỏ nhà đi
“bụi đời” (nguyên văn), không biết đi đâu, chỉ những lúc đau ốm hay cạn tiền mới
trở về với bà Mộng Ðiệp.
Cũng theo lời tường thuật của
ông Bảo Ân: “Sau cú ‘sốc’ đó cựu hoàng không muốn tin ai nữa, không muốn tiếp
xúc với ai, ông bảo bà Mộng Ðiệp đưa tiền rồi đeo cái túi xách lên vai đi 3-4
ngày, đôi khi đi cả tuần đến khi đau ốm hoặc hết tiền mới trở về. Khi hết bệnh
ông lại đi tiếp, hỏi ông đi đâu thì ông nói đi loanh quanh đây thôi. Có khi bà
Mộng Ðiệp phải bảo Hoàng Tử Bảo Sơn và anh Jean Bui (con riêng của bà) theo dõi
cựu hoàng, thì ông giận bà suốt hai tuần. Có lần cựu hoàng lên cơn sốt rét nằm
trên băng ghế, dưới hầm metro, cảnh sát đem ông về đồn và gọi điện thoại cho
Hoàng Tử Bảo Long đến bảo lãnh ông về, rồi khi hết bệnh ông lại đi nữa.”
Thứ Phi Mộng Ðiệp nói với Bảo
Ân: “Nhà dì giống như cái trạm, hết tiền hay đau bệnh thì ngài mới về. Vì vậy
khi Hoàng Hậu Nam Phương qua đời năm 1963, ở Chabrignac, không ai biết ngài ở
đâu để thông báo. Ðiều này làm ngài rất buồn và cứ băn khoăn trách móc dì mãi!”
Nghèo
khổ và cô đơn
Năm 1967, Công Chúa Phương Minh
sang Pháp theo sự sắp xếp hôn nhân của gia đình nhưng không thành, thấy hoàn cảnh
của vua cha cô đơn và tội nghiệp, nên cô tình nguyện ở lại để săn sóc cha.
Lúc này cựu hoàng đã dùng thuốc
ngủ rất nặng, có lần uống thuốc xong, nằm vắt tay lên trán, vừa suy nghĩ vừa
hút thuốc. Khi thuốc ngấm, ông ngủ hồi nào không biết, điếu thuốc trên tay rơi
xuống áo cháy phỏng cả ngực, nên lần sau mỗi lần ông dùng thuốc ngủ, cô Phương
Minh đứng đó canh chừng đến khi ông ngủ rồi mới dám đi làm công việc. Tuy ở
Paris, Phương Minh cũng chỉ gặp Hoàng Tử Bảo Long một lần và chưa hề giáp mặt Bảo
Thăng và các công chúa Phương Mai, Phương Liên và Phương Dung. Quốc Trưởng Bảo
Ðại có nhiều vợ và nhiều dòng con, khi Nam Phương Hoàng Hậu qua đời, ông cũng
không hay biết, điều đó đã tạo thêm sứt mẻ trong gia đình.
Từ
trái sang phải: Bà Ưng Thi, cựu Hoàng Bảo Ðại, bà Monique Baudot, ông Ưng Thi
(Paris 1995). (Hình: Tài liệu của gia đình ông Bảo Ân)
Ðời sống ở Paris cũng khó khăn,
vất vả, cô con gái của cựu hoàng, phải đi làm tiếp viên trong một nhà hàng
Trung Hoa để có phương tiện để sống gần cha và chính cô, cũng phải nhận sự trợ
giúp từ mẹ ở Sài Gòn. Trong thời gian này, hầu hết sự chi dùng của ngài là do
tiền của Ðức Bà Từ Cung gởi qua. Mặc dầu các con cũng thường hay lui tới thăm
ngài, nhưng ngài không bao giờ đề cập đến vấn đề tiền bạc, và cũng không ai
nghĩ đến chuyện giúp đỡ ngài. Theo lời cô Phương Minh kể lại, khi có tiền thì
hai cha con rủ nhau đi nhà hàng, khi hết tiền thì nhiều ngày chỉ có một bữa ăn.
Nhiều khi cạn tiền, túng thế, cựu
hoàng phải bảo Phương Minh chạy đi “vay mượn” những người quen biết.
Cho mãi đến năm 1971, Phương
Minh hay tin mẹ đau nặng, cô trở về Sài Gòn và bị kẹt lại sau khi cộng sản chiếm
miền Nam. Cũng năm này, Bảo Ðại kết hôn với Monique Baudot, một phụ nữ Pháp kém
hơn 30 tuổi (Monique Baudot sinh năm 1946.) Bảo Ðại vào đạo Thiên Chúa, có tên
thánh là Jean-Robert.
Ở Paris, cựu Hoàng Bảo Ðại
không có nổi một căn nhà, nơi mà cựu hoàng ở với bà Monique trong những ngày cuối
đời là do một người Pháp yêu mến để cho cựu hoàng ở không lấy tiền. Có lần,
theo lời kể của bà Mộng Ðiệp, bà Monique đã xúi nhà vua kiện ra tòa án để lấy
các tài sản của bà thứ phi, nhưng nhà vua đã không bằng lòng. Cuộc hôn nhân cuối
cùng với bà Monique đã đưa đến chia rẽ trong gia đình cựu hoàng, từ đó không ai
đến thăm viếng ông nữa và gần như vị vua cuối cùng của triều Nguyễn sống trong
cảnh nghèo khó và cô đơn. Năm 1982, nhân khai trương Hội Hoàng Tộc ở hải ngoại,
Bảo Ðại lần đầu tiên sang thăm Mỹ với tư cách cá nhân, cùng đi với cựu hoàng có
bà Monique.
Sau khi cựu Hoàng Bảo Ðại kết
hôn với bà Monique thì các con đều xa lánh không lui tới, thăm viếng. Ông mất
ngày 31 Tháng Bảy 1997 tại Quân Y Viện Val-de-Grâce, Paris, hưởng thọ 85 tuổi.
Ðám tang Bảo Ðại được tổ chức một cách lặng lẽ vào lúc 11 giờ ngày 6 Tháng Tám
năm 1997 tại nhà thờ Saint-Pierre de Chaillot số 35 đại lộ Marceau, quận 16
Paris và linh cữu được mai táng tại nghĩa địa Passy trên đồi Trocadero, không hề
thấy sự hiện diện của thân thích gia đình, trừ bà Monique, người vợ cuối cùng ở
bên cạnh, với cờ tam tài của Pháp Quốc và Hội Cựu Quân Nhân Pháp.
‘Hoàng
Tử’ Bảo Ân xin hai chữ ‘công bình’
Ðể kết thúc 5 kỳ báo viết về cựu
Hoàng Bảo Ðại và tấm lòng của đứa con trai lưu lạc Bảo Ân, không có gì hơn là mời
bạn đọc hiểu nỗi lòng của ông, được ghi lại trong bài diễn văn thay mặt gia
đình, dự định đọc trong lễ khánh thành lăng mộ cựu Hoàng Bảo Ðại năm 2006 không
thành.
Hoàng Tử Bảo Ân đã biện bạch nỗi
lòng của một đứa con “bất hiếu” và xin hai chữ “công bình” cho phụ hoàng: “Năm
1980 tại Huế, tôi đã từng khóc để tiễn biệt Ðức Bà Nội tôn kính của chúng tôi
là Ðoan Huy Hoàng Thái Hậu Từ Cung về với tổ tiên, liệt thánh nhà Nguyễn. Một lần
nữa, 1986, tôi lại khóc để vĩnh biệt mẹ thân yêu của chúng tôi là bà thứ phi Lê
Phi Ánh, và bây giờ, mặc dầu trễ chín năm do hoàn cảnh, cuối cùng tôi cũng đến
được nơi đây để mong một phần nào làm tròn bổn phận của một đứa con hơn 50 năm
qua, ao ước được gặp lại cha mình, nhưng rồi mãi mãi niềm ao ước đó chẳng bao
giờ thành hiện thực. Ngày nay đứng bên mộ phần của cha, xin cúi đầu kính cẩn
dâng lên ngài lời cầu xin được tha tội!”
“Nói về cuộc đời của Cha tôi,
lâu nay có nhiều dư luận trái ngược nhau. Ngày hôm nay, bên mộ phần ngài, tôi
không muốn biện minh những gì ngài đã làm cho dân tộc của ngài, mà chỉ xin quý
vị, cùng tất cả những người Việt Nam khác, hãy bỏ qua những khác biệt chính trị
mà chỉ xét vấn đề trên từng bối cảnh lịch sử của đất nước, xin vui lòng nhìn
vào lương tâm mình, không phải để tìm trong đó lòng bác ái hay một tình cảm
riêng tư, bởi vì cha tôi, không muốn và cũng không chờ đợi sự rộng lượng đó của
quý vị, mà chỉ xin quý vị tìm trong đó một đức tính cao thượng và lòng trung thực
để trả lại cho ngài hai chữ ‘công bình’ trong lịch sử.” (Bảo Ân)
Bảo Ân d0ã làm tròn chữ hiếu, rất đáng khen! TT Ngô Đình Diệm, dù là vì lý do chính trị, đã truất phế vua Bảo Đại, nhưng cũng không nên tịch thu tài sản của vợ con ngài và đuổi Đức Bà Từ cung ra khỏi Cung An Định. Việc làm này quá sức tàn nhẫn! Có lẻ vì vậy mà anh em nhà Ngô đã gặp quả báo sau này, qua cuộc đảo chánh năm 1963 và tài sản của gia đình họ cũng đã bị tịch thu. Có phải đó là Luật Nhân Quả?
Trả lờiXóaBYT