Thứ Tư, 27 tháng 11, 2019

Đôi điều với ông Nguyễn Nhơn và quý vị Hoài Ngô 'ĂN CƠM CHÚA PHẢI MÚA TỐI NGÀY!" Nguyễn Nhơn

hoan hô lời bình phẫm của sir Khanh Gia...

On Tue, Nov 26, 2019 at 2:59 PM <khanhgia@gmail.com> wrote:
Liên Thành là một người cực kỳ đảm lược. Ông là một người Huế đáng kính phục. Ông đã lôi cổ tên Ác Tăng có gương mặt của một tên hải tặc Thái Lan Thích Trí Quang. Một tên lưu manh làm ô uế Phật Giáo chân chính, bởi thế nên những đồng bọn của tên giặc thầy chùa này mới tức điên lên. Trong đó có tên Hoàng long Hải

Sent from my iPhone

On Nov 25, 2019, at 4:33 PM, 'Thuc Vu' via Phụng Sự Xã Hội <PhungSuXaHoi@googlegroups.com> wrote:
Thưa quý vị,
Thưa ông Nguyễn Nhơn.
Xin quý vị vào link ở dưới để thấy rõ ông Tuệ Chương Hoàng Long Hải không hề nhục mạ các chiến sĩ Địa Phương Quân, Nghĩa quân, mà ông Hoàng Long Hải chỉ vạch trần sự gian dối của  Liên Thành thôi! 

Bài thơ của ông Nguyễn Nhơn đầy vu cáo và mang nặng tính chất ĂN CƠM CHÚA PHẢI MÚA TỐI NGÀY" ! Múa mấy chục năm rồi vẫn không biết mệt! Đọc bài thơ mà thấy tội nghiệp cho ông Nguyễn Nhơn. 






Ông Nguyễn Nhơn còn buộc tội những ai bênh vực cho Ngài Trí Quang là Cọng sản, không lẽ The Newyork Times cũng là Cọng sản nữa sao!? Cũng xin quý vị đọc để biết rằng Ngài trí Quang sản. từng bị Cọng sản giam cầm tại khám Chí Hòa hơn 1 năm rưỡi, sau đó bị quản thúc tại chùa Già Lam. Ordeal of a Famed Buddhist In Ho Chi Minh City Related là những chứng cớ cho thấy Hoài Ngô chỉ vì mộng ước một đất nước phủ lá cờ Trắng Vàng Vatican không thành công, nên hết sân hận này đến giận dữ khác. Than ôi! Đâng Toàn Năng không bao giờ dạy con chiên của Chúa như thế đâu!? Có chăng là con Chiên Nguyễn Nhơn lạc đàn mất rồi - Thục Vũ. 


The Newyork Times: Ordeal of a Famed Buddhist In Ho Chi Minh City Related – Sự thử thách của nhà sư nổi tiếng Thích Trí Quang từng bị cộng sản giam cầm tại khám Chí Hòa


Lời giới thiệu của tòa soạn Thư Viện Hoa Sen ngày 16 tháng 11, 2019 :
“Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, vì không thấy các hoạt động của thầy Trí Quang nên một số đông người đều tin thầy Thích Trí Quang là thân Cộng, đang được hưởng sự ưu đãi của nhà cầm quyền Cộng Sản. Nay nhận được bản phóng ảnh tờ báo New York Times đề ngày 14-7-1979 nói về nhà sư Thích Trí Quang bị cầm tù trong cũi một năm rưỡi tại khám Chí Hòa, chúng tôi chuyển ngữ bản tin này để rộng đường dư luận.”
(Bản tin gồm có bản nguyên gốc tiếng Anh và bản phóng ảnh cùng đường link dẫn đến bản gốc – Cảm ơn nhà văn Nguyên Giác Phan Tấn Hải đã gửi cho bản văn tiếng Anh).
Sự thử thách của nhà sư nổi tiếng ở Thành Phố Hồ Chí Minh
(Ordeal of a Famed Buddhist in Ho Chi Minh City Related)
Tác giả James P. Sterba; New York Times ngày 14 tháng 7 năm 1979
Tịnh Thủy chuyển ngữ (*)
Tanjung Pinang, Indonesia, 12 tháng 7 năm 1979.
images (11)
Nhà sư Phật Giáo nổi tiếng nhất Việt Nam, Thích Trí Quang, đã bị trở thành một bộ xương giống như bị bại liệt trong một năm rưỡi giam cầm tại nhà tù Chí Hòa ở thành phố Hồ Chí Minh, theo một viên cộng sư hàng đầu của nhà sư trốn thoát bằng thuyền (ra khỏi nước) tháng trước.
Viên cộng sự, Thích Thiên Quang, cho biết hôm nay trong một cuộc phỏng vấn ở đây (thành phố Tanjung Pinang, Indonesia) rằng thầy Thích Trí Quang, người đã lãnh đạo các phong trào chống lại chế độ của Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu trong những năm 1960, “đã được nhà cầm quyền Cộng Sản phóng thích ra khỏi tù năm 1977 sau khi chân bị bại liệt và bây giờ phải ngồi trên xe lăn tại chùa Ấn Quang.” Thầy Trí Quang hiện nay đã 57 tuổi.
Theo sư Thích Thiên Quang, điều kiện nhà tù dưới thời Cộng Sản từng được chế độ Thiệu gọi là chuồng cọp có vẻ giống như là cái cũi hay là cái nôi cho em bé. Sư Thiên Quang, người cũng bị tù hai năm, cho biết thầy Trí Quang bị giam 16 tháng trong một cái cũi giống như quan tài có lỗ (a coffin‐like hole) mà thầy không thể nào ngồi dậy được. Thầy được cho ra ngoài 15 phút mỗi ngày để giải tỏa căng thẳng và tắm rửa….
Thầy và các nhà lãnh đạo tôn giáo khác, sư Thiên Quang cho biết, thường xuyên được cắt tóc. Tóc cắt, sư nói, được cho vào ly nước, mà họ buộc phải uống.
Khi lần đầu tiên tiếp cận tại một trại tị nạn ở đây, trên đảo Bintan gần Singapore, sư Thiên Quang đã miễn cưỡng nói về việc ông trốn khỏi Việt Nam hoặc lý do cho việc này. Năm 38 tuổi, sư là lãnh đạo cấp cao thứ nhì của chùa Ấn Quang ở thành phố HCM, trước đây là Sài Gòn.
Đầu trọc và mặc trang phục choàng mầu đen, nhà sư đồng ý có một cuộc thảo luận hôm nay (giữa sư và nhà báo) trước sự chứng kiến của các viên chức tị nạn quốc tế mà không có những người tị nạn khác tham dự.
Sư nói rằng nhiệm vụ của sư là, đến Hoa Kỳ và Liên Hiệp Quốc để nói với thế giới về cuộc đàn áp tôn giáo của chính phủ Hà Nội, mà sư nói, đã gây ra một số sư tăng ni tự thiêu. Sư nói sư cũng muốn cho thế giới biết về những gì sư gọi là khởi đầu cho một cuộc đấu tranh tôn giáo thống nhất của Phật Giáo, Công Giáo, Tin Lành, Hòa Hảo, và Cao Đài, cũng như các nhóm kháng chiến vũ trang, chống lại nhà cầm quyền Cộng Sản.
Sư Thiên Quang cho biết các nhóm tôn giáo khác nhau đã hình thành các liên kết liên lạc bí mật và đang tổ chức một cuộc nổi dậy của người Việt Nam cho một cuộc nổi dậy vào năm 1981. Trước đó, các nhóm bất đồng chính kiến hy vọng sẽ thành lập một đài phát thanh bí mật để giúp các nhóm tổ chức theo đường dây Việt Cộng cũ.
Mặc dù nhà sư mơ hồ về thời gian, các viên chức tị nạn, một số người có kinh nghiệm trong quá khứ ở Việt Nam, đã cho biết các chi tiết phù hợp với các báo cáo khác được biết đến từ người tị nạn Việt Nam. Chẳng hạn, sư Thiên Quang, người vừa ra tù năm 1977,  nói rằng một cuộc biểu tình 3,000 người đã bị chính quyền Cộng Sản phá vỡ vào tháng 3 năm 1978. Sau đó, những Phật tử trung thành đã trốn về miền nông thôn để tìm và liên kết với nhiều nhóm chống Cộng Sản.
Mặc quần áo như một thường dân, sư nói, sư lẻn ra khỏi chùa và đi đến Tây Nguyên, nơi sư liên kết với một nhóm du kích vũ trang của Ful Fulro, trong tuần thứ ba vào tháng Tư năm 1978, chiếm được Cheo Reo trong một thời gian ngắn, thị trấn Montagnard còn được biết đến với tên tiếng Việt là Hậu Bon.
 Chiến đấu gần Ban Mê Thuột
 Sư Thiên Quang cho biết, cuộc chiến sau đó đã nổ ra một thời gian ngắn ở phía nam thành phố Ban Mê Thuột, với những người bộ lạc trên đồi chiến đấu với binh lính Cộng sản địa phương và tiếp theo đó là Sư Đoàn 3 Bộ Binh hay còn gọi là Sư Đoàn Sao Vàng. Fulro là một chương trình được thực hiện bởi chế độ Thiệu để tổ chức các bộ lạc trên đồi chống lại Việt Cộng.
Khi được hỏi nhóm chống Cộng Sản lấy vũ khí ở đâu, sư Thiên Quang cho biết nhiều binh sĩ Cộng Sản đã trở nên tham nhũng như những người lính chế độ Thiệu mà họ thay thế và vì vậy họ thường bán vũ khí. Nếu bạn có vàng, bạn có thể mua bất cứ thứ gì ở Việt Nam bây giờ, sư nói.
Tại thành phố HCM, sư cho biết, các mạng lưới ngầm hiện đang phát triển vì các quan chức Cộng sản từ Hà Nội đã bị dân chúng xa lánh do việc ngăn cấm tôn giáo, tịch thu tài sản và buộc mọi người phải đến các vùng kinh tế mới ở khu vực nông thôn. Kết quả là, sư nói, các nhóm từng là nhân vật phản diện đang trở nên thống nhất với nhau.
Sư Thiên Quang cho biết, các cuộc biểu tình chống lại lệnh cấm sinh hoạt tôn giáo đã bắt đầu một cách nghiêm túc vào năm 1976 khi 12 tăng ni Phật Giáo tự thiêu đến chết trong một vụ thiêu sống tập thể ở thành phố Cần Thơ ở đồng bằng sông Cửu Long [01]. Trong hai năm qua, sư nói, 18 người khác đã thực hiện hành vi tương tự chỉ riêng ở thành phố HCM. Lần gần đây nhất, sư nói, là vào tháng 3 này khi một ni cô tự thiêu đến chết trước một trại trẻ mồ côi.
Tại chùa Ấn Quang, được canh gác bởi những người bảo vệ có vũ trang, sư cho biết, tín đồ chỉ được phép đến chùa hai lần một tháng. Ngoài thầy Trí Quang, chỉ có ba nhà sư được ra tù ở và họ không được phép ra khỏi chùa. Thầy Trí Quang, sư nói, đang cố gắng tập đi lại bằng nạng.
Vào giữa những năm 1960, sau cuộc đảo chính lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm, những người theo thầy Trí Quang đã tìm cách loại trừ phe đảng quân đội dưới quyền của tướng Nguyễn Cao Kỳ. Chính quyền đã đáp trả, bằng cách bắt giữ nhiều Phật tử ở Huế và Sài Gòn. Thầy Trí Quang đã tuyệt thực 100 ngày để phản đối chính sách của Chính phủ Sài Gòn và Hoa Kỳ, lúc đó đang tăng cường hỗ trợ quân sự cho miền Nam Việt Nam.
 Bị cầm tù vài lần
 Năm 1967, Phật Giáo đưa ra một ứng cử viên, ông Trương Đình Dzu, trong cuộc bầu cử tổng thống để đối đầu với tướng Thiệu. Ứng cử viên của họ đã bị loại trừ một cách thẳng tay, nhưng ông ta, cùng với thầy Thích Trí Quang và một số người chống chính quyền Thiệu hàng đầu khác, đã bị giam giữ và thầy Trí Quang đã bị chế độ Thiệu cầm tù nhiều lần. [02]
Sư Thiên Quang cho biết hôm nay, ông rời thành phố HCM vào ngày 3/6 và sau khi nhận được sự giúp đỡ từ một tàu vận tải Na Uy và Hải Quân Singapore, ông và 37 người khác trên chiếc thuyền vượt biên, đã đến đảo Bintan vào ngày 15 tháng Sáu.
Khi được hỏi tại sao Phật tử Ấn Quang đấu tranh chống Cộng sản sau khi gây cho chế độ Thiệu rất nhiều rắc rối, sư Thiên Quang nói, “Dưới thời Thiệu, chúng tôi chỉ phản đối tham nhũng. Bây giờ, dưới chủ nghĩa Cộng Sản, chúng tôi không thể tồn tại. Bây giờ, chúng tôi đang chiến đấu cho sự sống hoặc chết.”
*Chú thích của người dịch:
[01] Tình trạng đàn áp bức thiết khiến 12 Tăng Ni tự thiêu tập thể ngày 2-11 năm 75 tại Thiền viện Dược Sư, tỉnh Cần Thơ, dưới hàng biểu ngữ “Chết vinh hơn sống nhục“. Đại đức Thích Huệ Hiền để lại chúc thư yêu sách chính quyền Cách mạng thực hiện nhân quyền, tự do tôn giáo, chấm dứt đàn áp tôn giáo. https://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/scale-of-a-crackdown-yl-04272015154522.html
 [02] Luật sư Trương Đình Dzu, 55 tuổi, là ứng cử viên Tổng Thống VNCH trong kỳ bầu cử tháng 9/1967. Là “ứng cử viên hoà bình”, Ông về nhì trong cuộc tranh cử, sau Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Sau cuộc bầu ông bị bắt, bị kết tội “có những hành động làm suy yếu tinh thần diệt Cộng sản của nhân dân” và sau đó bị kết án 5 năm tù giam.
(*) Biên tập viên / Thư ký thường trực ban biên tập Thư Viện Hoa Sen
alt
Bản tiếng Anh
Ordeal of a Famed Buddhist in Ho Chi Minh City Related
By James P. Sterba; Special to The New York Times
•  July 14, 1979
TANJUNGPINANG, Indonesia, July 12 — Vietnam’s most famous Buddhist monk, Thich Tri Quang, was turned into a skeleton‐like cripple during a year and a half of solitary confinement in Ho Chi Minh City’s Chi Hoa prison, according to a leading subordinate who escaped by boat last month.
The subordinate, Thich Thien Quang, said today in an interview here that Mr. Tri Quang, who in the 1960’s led moventents against the regimes of Ngo Dinh Diem and Nguyen Van Thieu, “was released from prison by the Communists in 1977 after his legs atrophied and was now confined to a wheelchair at the An Quang Pagoda.” Mr. Tri Quang is now 57 years old.
According to Mr. Thien Quang, prison conditions under the Communists made the Thieu regime’s so‐called tiger cages seem like playpens. Mr. Thien Quang, who was also jailed for two years, said Mr. Tri Quang was kept for 16 months in a coffin‐like hole in which he could not sit up. He was let out for 15 minutes a day to relieve himself and bathe.
He and other religious leaders, Mr. Thien Quang said, were given haircuts often. The cut hair, he said, was put in glasses of water, which they were forced to drink.
When first approached at a refugee camp here, on Bintan Island near Singapore, Mr. Thien Quang was reluctant to talk about his escape from Vietnam or the reasons for it. At 38 years of age, he was the No 2 leader of the An Quang Pagoda in Ho Chi Minh City, formerly ISaigon.
Head shaven and dressed in black clerical garb, the earnest monk agreed to a discussion today away from other refugees and in the presence of international refugee officials.
He said his “mission” was to go to the United States and the United Nations to tell the world about religious persecution by the Hanoi Government, which he said had provoked a number of incidents of self‐immolation by monks and nuns. He said he also wanted to let the world know about what he termed the beginning of a united religious struggle of Vietnamese Buddhists, Catholics, Protestants, Hoa Hao, and Cao Dai, as well as armed resistance groups, against the Communist rulers.
Mr. Thien Quang said the various religious groups had formed secret communication links and were organizing disgruntled Vietnamese for an uprising in 1981. Before that, he said, various dissident groups hope to set up a clandestine radio station to help the groups organize along lines of the old Vietcong.
Although the monk was vague about some dates, refugee officials, some with past experience in Vietnam, said his details conformed to other, less well‐placed reports from Vietnamese refugees. For example, Mr. Thien Quang, who was released from prison in 1977, said that a protest by 3,000 people was broken up by the Communist authorities in March 1978. After that, loyal Buddhists fanned out into the countryside to find and link up with various anti‐Communist groups.
Dressed as a civilian, he said, he sneaked out of the pagoda and traveled to the Central Highlands, where he linked up with an armed group of “Fulro” montagnard guerrillas who, in the third week in April 1978, briefly occupied Cheo Reo, a montagnard town also known by the Vietnamese name Hau Bon.
 Fighting Near Ban Me Thuot
 Mr. Thien Quang said that later fighting erupted briefly south of Ban Me Thuot, with hill tribesmen battling local Communist soldiers and then the “Yellow Star” Third Army Division. Fulro was a program carried out by the Thieu regime to organize hill tribesmen against the Vietcong.
Asked where the anti‐Communist group got their weapons, Mr. Thien Quang said many Communist soldiers had become as corrupt as the Thieu regime soldiers they replaced and so they often sold weapons. “If you have gold, you can buy anything in Vietnam now,” he said.
In Ho Chi Minh City, he said, underground networks now flourished because the administrators from Hanoi had alienated so many people by virtually eliminating religious freedom, confiscating property, and forcing people to go to new economic zones in rural areas. As a result, he said, groups that used to be antagonists were becoming united.
In Ho Chi Minh City, he said, underground networks now flourished because the administrators from Hanoi had alienated so many people by virtually eliminating religious freedom, confiscating property, and forcing people to go to new economic zones in rural areas. As a result, he said, groups that used to be antagonists were becoming united.
Mr. Thien Quang said that protests against a clampdown on religious activities began in earnest in 1976 when 12 Buddhist priests and nuns burned themselves to death in a mass immolation in the Mekong Delta city of Can Tho. In the last two years, he said, 18 others had committed the same act in Ho Chi Minh City alone. The latest, he said, was this March when a nun burned herself to death in front of an orphanage.
At the An Quang Pagoda, he said, worshipers are allowed in only twice a month. Armed guards surround the pagoda. Besides Mr. Tri Quang, only three monks have been released from prison and they are not allowed out of the pagoda. Mr. Tri Quang, he said, is trying to learn to walk again using crutches.
In the mid‐1960’s, after a coup had overthrown the Diem regime, Mr. Tri Quang’s followers sought to unseat a military junta under Gen. Nguyen Cao Ky. The junta struck back, arresting many Buddhists in Hue and Saigon. Mr. Tri Quang went on a 100‐day hunger strike to protest the policies of the Saigon Government and the United States, which was then increasing its military support for South Vietnam.
 Imprisoned Several Times
 In 1967, the Buddhists put up a candidate, Truong Dinh Dzu, in the presidential elections to oppose General Thieu. Their candidate finished a strong second, but he, along with Mr. Tri Quang and several other leading anti‐Thieu South Vietnamese, was placed in “protective custody.” Mr. Tri Quang was imprisoned several times by the Thieu regime.
Mr. Thien Quang said today that he left Ho Chi Minh City on June 3 and, after receiving help for his boat with 37 other people from a Norwegian freighter and the Singapore Navy, arrived at Bintan Island on June 15.
Asked why the An Quang Buddhists were struggling against the Communists after causing the Thieu regime so much trouble, Mr. Thien Quang said:
Under Thieu, we were only protesting corruption. Now, under Communism, we cannot exist at all. Now we are fighting for life or death.”






Ordeal of a Famed Buddhist In Ho Chi Minh City Related

Article on famed Vietnamese Buddhist Monk Thich Tri Quang, who led movements in ’60’s against regimes of Ngo Din…

Share this:




On Monday, November 25, 2019, 02:49:32 PM PST, Dao Tran <thuchuongbang@gmail.com> wrote:


Đúng là “Tiến xỉ” vô ơn! Có tài mà không có đức, ích gì cho nhân quần xã hội!

Một người binh nhì cầm súng bảo vệ quê hương còn quý hơn vạn lần bọn tiến xỉ này!
Bài thơ mắng chúng của Nguyễn Nhơn thật chí lý!
Bài thơ “Nhớ em Cật” thật cảm động!
Cám ơn Nguyễn Nhơn!

QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HOÀ MUÔN NĂM!
Muôn đời nhớ công ơn các chiến sĩ đã hy sinh để bảo vệ VNCH!


👏👏👏👏👏👏👏👏👏👏👏👏👏👏👏👏👏

Trần Thị Đào

---------- Forwarded message ---------
From: Nhon Nguyen <nhon37@hotmail.com>
Date: Mon, Nov 25, 2019 at 1:57 PM
Subject: [PSXH] Mắng Bọn " tiến xỉ " Vô Ơn
To: Nhon Nguyen <nhon37@hotmail.com>


​Có những " thằng, con tiến xỉ " 
vì muốn nâng bi " cầy " trí quang
Mè nheo rằng Liên Thành
Hổng có bằng Tú tài
Chỉ là sĩ qun " BẢO AN "
Tôi nói cho những tên vô loại ấy hay
Chính những " BẢO AN - DÂN VỆ " ấy
Đổ máu gìn làng, giữ xóm
Mới có An ninh ở Hậu phương
Cho tụi bây ở yên ăn học
Cho có bằng tiến sĩ đó!
Đồ có bằng cấp mà thiếu tư cách làm người
Đã vô ơn với người lính chiến
Còn theo bọn phản loạn phá xóm phá làng
Làm sụp đổ Việt Nam Cộng Hòa TỰ DO
Đồ có học mà bất tiếu
Yếu xìu xịu

Tôi sống gần gủi với anh em Nghĩa quân, Địa Phương Quân kể từ những ngày Nghĩa Quân còn là Dân Vệ, vác “Oãnh tầm sào” (súng trường Đông Dương – Mousqueton indochinois thòi Pháp) giữ làng, giữ ấp. Đêm về rút vào các tháp canh đơn lẽ với quân số không quá một tiểu đội. Cho nên đêm 27 tháng 4 ngày sắp mất nước, tôi bất chấp quân luật khi cho lệnh Trung đội Nghĩa quân xã Phước Tân “di tản chiến thuật!” về xã An Hòa Hưng (Bến Gỗ) khi Trung đội bị cả bầy chiến xa T54 vc uy hiếp bên ngoài vòng đai phòng thủ của lưc lượng Dù, Thủy quân lục chiến.
Với anh em Địa phương quân, tôi quen thuộc từ ngày còn là lực lượng phụ trợ Bảo An (Forces supplétives). Hồi ở Chương Thiện, mỗi khi hướng dẫn đoàn công tác xuống Quận Gò Quao (Kiên Hưng) sát Rừng U Minh, vc như rươi, ngoài trung đội Bảo an hộ tống, ông Phó Tỉnh trưởng Nội an còn ưu ái phái cả cặp thiết giáp AM 8 theo bảo vệ. Giáp Tết Ất Mẹo 1975, tháp tùng ông Tỉnh trưởng bay trực thăng vào chiến khu D thăm và tặng quà Tết cho Liên đoàn Địa phương quân lập vòng đai phòng thủ bảo vệ tỉnh lỵ Biên Hòa, khi lên máy truyền tin chúc tết các Tiểu đoàn, với tư cách chỉ huy dân chính tôi thân mật hỏi: Liệu anh em có giữ vững được trận tuyến nầy không? Các vị Tiểu đoàn trưởng đều hăng hái đáp bình dị: Chừng nào tụi tui sập tiệm thì chỗ ông Phó mới lâm nguy.
Vậy đó, quá trình trưởng thành của lực lượng Nghĩa quân từ tiểu đội Dân vệ lẽ lên thành các Trung đội chánh qui thuộc cấp số của mỗi xã và là một thành phần của Quân lực VNCH là như vậy.
Địa phương quân cũng vậy, từ các đại đội Bảo an biệt lập cho mỗi Quận trở thành các Tiểu Đoàn, Liên đoàn cơ động.
Là các đơn vị an ninh lãnh thổ hay diện địa, Nghĩa quân, Địa phương quân tuy không lập được chiến công hiển hách nhưng công lao bảo vệ cho làng xóm, dân tình được an cư, lạc nghiệp, tuy âm thầm nhưng đáng quý trọng và xứng đáng là thành phần của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Cũng từng phen máu đào nhuộm thấm đất quê hương!

QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HÒA
Theo như tôi biết
hanhquan4-large-content

Đầu năm 1963, tôi được thuyên chuyển về tỉnh tân lập Chương Thiện và được cử giữ chức vụ Trưởng Ty Nội An. Vốn từ Khu Trù Mật Vị Thanh biến cải, tỉnh lỵ lúc ấy gồm một chợ nhỏ và một dãy phố chạy dọc theo bờ kinh Xà No. Phía sau dãy phố chợ, còn một khu phố lầu mới cất. Sâu vào phía trong là khu hành chánh và Tiểu khu Chương Thiện. Nơi đây chỉ có dinh Tỉnh trưởng là một nhà lầu nhỏ. Văn phòng Tỉnh trưởng và Phó Tỉnh trưởng là nhà gạch, còn thì là nhà cây lợp tôn.
Bảo vệ an ninh tỉnh lỵ, đầu phía trên là Tỉnh đoàn Bảo an, quân số khoản một đại đội và một chi đoàn cơ giới gồm 2 thiết giáp AM8 và 2 thiết giáp Mã Lai, trang bị đại liên Lebel. Đầu dưới là hậu cứ Trung đoàn 31/ Sư đoàn 21 án ngữ. Ngoài ra, còn một khẩu đội pháo 105 ly. Tiểu khu chỉ có một đại dội cơ hữu cũng là Bảo an.
Nhiệm vụ Trưởng ty Nội an thật ra chỉ là viên chức văn phòng. Dân nhà nghề hành chánh thường bỡn nhau là chức vụ bôite aux lettres, nghĩa là hộp thơ, tiếp nhận các báo cáo về an ninh của Ty Công an, Ty Cảnh sát, các Quận và...tổng hợp thành phúc trình về Bộ Nội vụ là hết. Nhưng không hiểu sao cả Tỉnh trưởng lẫn Phó tỉnh trưởng Nội an vẫn xem Trưởng ty Nội an là phụ tá về an ninh tỉnh mới kỳ?
Sau khi làm việc chung vài ba tháng, trở nên thân cận, trưởng ty nội an lắm khi can dự cả vào việc nhà binh thuần túy. Ở tỉnh nhỏ ven rừng U Minh, các đồn Dân vệ thường bị vc quấy phá về đêm. Những khi một chiếc đồn côi bị tấn công mạnh, Phó TT Nội an triệu trưởng ty nội an qua phòng hành quân tham dự chỉ huy đơn vị Dân vệ đồn trú chống giặc. Gặp trường hợp đồn nằm ngoài tầm pháo yểm trợ mới thật là sốt ruột. Nghe tiếng bác già trưởng đồn kêu ơi ới, vc đông quá, xin pháo yểm mà chẳng biết làm sao?! Phó TT Nội an vốn quen trận mạc, bình tỉnh căn dặn: Nè, bác già nghe đây. Quan sát thật kỷ “nó” tập trung hướng nào, rê trung liên về phía đó chuẩn bị. Khi nào “chúng” xung phong mới khai hỏa thật mạnh. Tôi đang chuẩn bị pháo yểm (?!). Báo cáo hướng địch xuất hiện. Thầy trò dặn dò, đối đáp chưa xong, địch đã khai hỏa. Nghe tiếng trung liên Bar nỗ dòn trên máy truyền tin, Đại úy Phó TTNA yên lòng, gật gù, lẩm bẩm: Vậy là khá! Từ nửa đêm về sáng, tiếng súng lúc thưa lúc nhặt theo nhịp địch quân tấn công. Số thương vong càng ngày càng trầm trọng. Có lúc trưởng đồn kêu hoãng hốt: Xin pháo yểm hỏa tốc! Phó NA đành trấn an: Đang di chuyển pháo vào tầm pháo yểm. Cố gắng lên bác già! Thật ra thì làm gì có chuyện di chuyển pháo ban đêm ở chiến trường đồng ruộng! Cứ vậy cho đến hừng đông, tiếng trung liên Bar vẫn còn nỗ nhịp ba, nghĩa là xạ thủ còn bình tỉnh, bắn chính xác, tiết kiệm đạn. Phó NA thở phào, chép miệng: Vậy là thoát. Quả nhiên phi cơ quan sát bà già, xin phi yểm từ lúc nửa đêm, bây giờ(!) đã đến. Mới thả vài trái sáng thì cuộc chiến đã tàn. Chiếc đồn côi Dân vệ đã tự lực cánh sinh, không cần phi, pháo yểm. Hiển nhiên vì vậy tổn thất cao. Phó NA buông combinée, vươn vai và bước khỏi phòng hành quân...nhưng không phải về nhà nghỉ mà là đi trang bị, chỉ huy đại đội tải đạn dược tiếp tế cho đồn và lo việc tản thương. Ông vốn là Trung đoàn phó TĐ 31 chỉ huy hành quân với lực lượng trung đoàn. Giờ qua làm Phó Tỉnh trưởng NA, chỉ huy hành quân cấp Đại đội. Đó là cái giá của “danh vị!”
Quận trưởng Đức Long (Quận Châu Thành) cũng vậy. Ông vốn là Đại úy Tiểu đoàn trưởng thuộc Trung Đoàn 31/SĐ21, bạn thân của Phó TTNA. Một bửa, ông dẫn một trung đội Bảo an lên tận đồn Xã Ngọc Hòa, mãi ngoài vàm đầu kinh Xà No, giáp Kinh Miệt Ngàn công tác. Xế chiều ra về thì chạm địch. Địch với quân số áp đảo mở thế trận bao vây. Được tin báo, Phó TTNA xuống phòng hành quân theo dõi. Giữa tiếng súng nỗ ran, tiếng quận trưởng hầu như hốt hoãng: Địch đông quá! Sắp tràn ngập. Hỏa tốc pháo yểm! Phó TTNA xem lại tọa độ nơi chạm súng: Ngoài tầm pháo diện địa! Ông vội vã trấn an: Ráng đánh rấn lên, di chuyển về phía bờ kinh để vào tầm pháo bắn chặn. Im lặng một hồi, chợt nghe tiếng quận trưởng la lớn: Nguy rồi! Không di chuyển được, rồi im bặt. Phó TTNA nước mắt lưng tròng! Buông combinée ngồi tê điếng. Một lúc nữa, trên máy lại nghe tiếng súng dồn dập lẫn tiếng quận trưởng la: Hỏa tốc...rồi lặng trang. Phó TTNA nước mắt rơi lả chả... Lúc nầy đã về đêm. Chợt máy truyền tin kêu rột rẹt, rồi tiếng quận trưởng cất lên: Đã đánh rấn đến bờ kinh Xà No, điểm X. Phó NA như vừa chết đi sống lại, chụp combineé gọi pháo đội ra lịnh bắn trái sáng xác định tọa độ. Rồi thì pháo chụp nhịp nhàng cho đến khi trên máy quận trưởng hô: Đã bắt tay với Đại đội tiếp viện. Phó TTNA buông máy, cười rạng rở!
Năm 1965, đang là Trưởng ty Nội an Tỉnh Biên Hòa, trong một phiên họp đêm khẩn cấp tại tư dinh Tỉnh trưởng, Trung tá Mã Sanh Nhơn bảo: Đêm qua, vc về bên kia đầu chợ Dĩ An, bắn rớt béret của cảnh sát trên xe tuần cảnh, anh chịu khó xuống đó, phụ giúp quận trưởng, không thôi có ngày mất quận. Tôi làm Phó Quận trưởng trong tình hình khó khăn như vậy. Hồi đó, đêm dêm, Lữ đoàn 173 Nhảy dù Mỹ đóng quân cạnh phi trường Biên Hòa thường bắn pháo về phía rừng Cù Mi, căn cứ vc để ngăn ngừa pháo kích vào phi trường. Một đêm, một quả pháo bay lạc vào xóm dân xã Tân Hiệp. Sáng hôm sau, được tin, phó QT bấn xúc xích, có bao nhiêu phẩm vật thuộc chương trình Ấp Chiến lược đều tom góp hết đem đi cứu trợ. Thường ngày, đi công tác lên hai xã bất an ninh Bình Trị, Tân Hiệp phải đi đường vòng, vừa xa vừa mất thì giờ. Bửa nay đâu rề rà như vậy được nên mới bốc luôn tiểu đội Dân vệ phòng vệ dinh quận hộ tống đi đường tắt cho lẹ. Cậu dân vệ Cật bị thương vừa mới khỏi nên xung vào tiểu đội phòng vệ để nghỉ dưỡng thương nhưng mỗi khi đi công tác lại thích thủ trung liên. Như thường lệ, cậu nhỏ vác khẩu trung liên Bar, thượng Dodge 4x4, gác lên cabin nghênh ngang hộ tống ông Phó đi công tác. Đường từ quận lỵ An Bình lên đồn Bình Trị là bất an ninh, nhất là đoạn đường băng qua Ấp Chiêu Liêu, quê nhà của em Cật, thường bị giật mìn, bắn sẻ. Em Cật biết rõ như vậy nên lom lom quan sát, sẵn sàng tác chiến. May là hôm đó lên đến đồn Bình Trị vô sự.. Từ đồn Bình Trị lên Tân Hiệp chỉ chừng một cây số rưởi nhưng hoàn toàn bất an ninh vì xã Tân Hiệp thuộc loại xã lưu vong, nghĩa là xã trưởng và bộ sậu phải ngồi tạm bên văn phòng xã Bình Trị làm việc. Xã Tân Hiệp nằm sát rừng Cù Mi, căn cứ vc nỗi tiếng miền Đông, lại là xã nhà của tỉnh ủy vc Năm Trang. Phó QT đã bố trí cẩn thận: Đoàn công tác phải làm việc thật lẹ. Trong khi tôi giải thích vắn tắt đôi lời với bà con trong xã, đoàn cán bộ phải cấp phát quà cứu trợ thật nhanh, không cần lập danh sách, ký nhận gì hết vì tôi biết rằng nếu nấn ná, bọn du kích có thời giờ từ rừng Cù Mi kéo ra thì mệt lắm. Như thường lệ, hễ hô rút là tất cả lên xe dọt thiệt lẹ. Lần nầy thiệt là rủi: Xe vừa lăn bánh, một phát bắn sẻ oan nghiệt trúng ngay cổ em Cật. Tôi cho xe chạy hết ga nhưng vừa tới đồn Bình Trị là em Cật xuôi tay, nhắm mắt. Lân đầu tiên trong đời, người cán bộ hành chánh trẻ thấy trước mắt cảnh chiến trường đổ máu nên nhìn thi hài đứa em dân vệ nước mắt tuôn rơi!
ĐÔI DÒNG TÂM TÌNH THAY LỜI KẾT
Tôi sống gần gủi với anh em Nghĩa quân, Địa Phương Quân kể từ những ngày Nghĩa Quân còn là Dân Vệ, vác “Oãnh tầm sào” (súng trường Đông Dương – Mousqueton indochinois thòi Pháp) giữ làng, giữ ấp. Đêm về rút vào các tháp canh đơn lẽ với quân số không quá một tiểu đội. Cho nên đêm 27 tháng 4 ngày sắp mất nước, tôi bất chấp quân luật khi cho lệnh Trung đội Nghĩa quân xã Phước Tân “di tản chiến thuật!” về xã An Hòa Hưng (Bến Gỗ) khi Trung đội bị cả bầy chiến xa T54 vc uy hiếp bên ngoài vòng đai phòng thủ của lưc lượng Dù, Thủy quân lục chiến.
Với anh em Địa phương quân, tôi quen thuộc từ ngày còn là lực lượng phụ trợ Bảo An (Forces supplétives). Hồi ở Chương Thiện, mỗi khi hướng dẫn đoàn công tác xuống Quận Gò Quao (Kiên Hưng) sát Rừng U Minh, vc như rươi, ngoài trung đội Bảo an hộ tống, ông Phó Tỉnh trưởng Nội an còn ưu ái phái cả cặp thiết giáp AM 8 theo bảo vệ. Giáp Tết Ất Mẹo 1975, tháp tùng ông Tỉnh trưởng bay trực thăng vào chiến khu D thăm và tặng quà Tết cho Liên đoàn Địa phương quân lập vòng đai phòng thủ bảo vệ tỉnh lỵ Biên Hòa, khi lên máy truyền tin chúc tết các Tiểu đoàn, với tư cách chỉ huy dân chính tôi thân mật hỏi: Liệu anh em có giữ vững được trận tuyến nầy không? Các vị Tiểu đoàn trưởng đều hăng hái đáp bình dị: Chừng nào tụi tui sập tiệm thì chỗ ông Phó mới lâm nguy.
Vậy đó, quá trình trưởng thành của lực lượng Nghĩa quân từ tiểu đội Dân vệ lẽ lên thành các Trung đội chánh qui thuộc cấp số của mỗi xã và là một thành phần của Quân lực VNCH là như vậy.
Địa phương quân cũng vậy, từ các đại đội Bảo an biệt lập cho mỗi Quận trở thành các Tiểu Đoàn, Liên đoàn cơ động.
Là các đơn vị an ninh lãnh thổ hay diện địa, Nghĩa quân, Địa phương quân tuy không lập được chiến công hiển hách nhưng công lao bảo vệ cho làng xóm, dân tình được an cư, lạc nghiệp, tuy âm thầm nhưng đáng quý trọng và xứng đáng là thành phần của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Cũng từng phen máu đào nhuộm thấm đất quê hương!
Nguyễn Nhơn
( Mùa hè 2012 )

NHỚ EM CẬT

Ba mươi tháng tư lại về
Ngồi buồn thơ thẩn nhớ em Cật
Em tôi hy sinh vì nước khi tuổi đời vừa mười tám
Sống, chiến đấu và chết ngạo nghễ như tuổi trẻ Việt Nam

EM CẬT

Em Cật là dân Ấp Chiêu Liêu
Sát bên rìa rừng Cù Mi, ổ VC
Tuổi mười bảy mười tám
Đã khoác bộ đồ đen Dân Vệ
Lo giữ Làng giữ Ấp

Em mới bị thương vừa khỏi
Được sung vào Tiểu Đội phòng vệ
Dinh Quận để dưỡng thương
Nhưng lại thích thủ Trung liên
Mỗi khi đi công tác

Lữ Đoàn 173 Nhảy dù Mỹ
Đóng quân cạnh Phi trường Biên Hòa
Đêm đêm thường nã pháo
Về phía rừng Cù Mi
Để ngăn chặn pháo kích

Đêm đó một quả pháo bay lạc
Rớt ngay vào xóm dân xã Tân Hiệp
Phó Quận trưởng bấn xúc xích
Quơ quào tom góp đồ cứu trợ

Ngày thường đi công tác không hộ tống
Phải chạy theo đường vòng
Từ quận lỵ xã An Bình
Chạy ra ngả ba Cây Lơn, xã Đông Hòa
Quẹo trái qua xã Bình An

Đổ dốc núi Châu Thới
Tẻ vô lộ đá đỏ ra xã Hóa An
Rồi mới lên xã Tân Hạnh
Lại tẻ vào lộ đá đỏ lên Đồn xã Bình Trị
Mới lên tới xã Tân Hiệp

Chạy vòng vòng vòng như vậy
Vừa xa vừa mất thời giờ
Cậu Phó trẻ làm sao chịu được
Mới bốc ngay Tiểu đội phòng vệ Dinh
Đi đường trong cho lẹ

Em Cật như thường lệ
Vác Trung liên nhảy phóc lên xe
Gác lên cabin chĩa lăm lăm
Hộ tống Ông Phó đi công tác

Từ quận lỵ lên Đồn Tân Đông Hiệp
Đường tương đối an ninh
Ngừng xe lại Đồn Tân Đông Hiệp
Hỏi tình hình an ninh

Đoạn đường từ đây tới Đồn Bình Trị
Là đoạn đường nguy hiểm
Giựt mìn, bắn sẻ không hiếm
Mới nhấn ga dọt như biến

May lên tới Đồn Bình Trị vô sự
Từ đó lên Tân Hiệp chỉ chừng cây số rưỡi
Nhưng mà coi chừng đó
Đây là xã nhà của Phó Tỉnh Ủy VC Năm Trang

Vừa đến nơi công tác
Em Cật đã lẹ làng tìm vị trí đặt súng
Sẵn sàng tư thế tác chiến
Bảo vệ an ninh cho đoàn công tác

Rồi cũng như mọi khi
Thực hành phương châm
Công tác lẹ, rút lẹ
Hô rút là lên xe dọt lẹ

Lần nầy, rủi ôi là rủi
Xe mới vừa lăn bánh
Một phát bắn sẻ oan nghiệt
Trúng ngay cổ em Cật

Nhấn ga dọt như điên
Hỏa tốc trăm lần hỏa tốc
Vừa tới Đồn Bình Trị
Em Cật đã thở hắt ra
Rồi xuôi tay nhắm mắt

Phó Quận trưởng vốn giòng văn nhược
Chưa từng trải cảnh chiến trường máu đổ tử vong
Mới nước mắt ngắn, nước mắt dài lâm ly
Khóc thương đứa em vừa tử trận
Em tôi tên là Cật

( Nhớ đứa em tử trận)
Anh Nhơn

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét