Chủ Nhật, 28 tháng 7, 2019

TẠI SAO TỔ TIÊN BÁCH VIỆT LẠI ĐỂ MẤT ĐỊA BÀN SINH SỐNG ĐỒNG BẰNG SÔNG DƯƠNG TỬ (2

Thể theo lời BS. Sắc, tôi lục tìm được tài liệu đính kèm, gởi lại quý vị đoc chơi.
Nguyễn Nhơn

Cuộc sinh tồn và sự thất truyền của văn minh Việt cổ
12:00 | 02/04/2016
Theo các sử gia lớn trên thì dân Bách Việt đã cư trú trước khắp miền Nam Trung Hoa hiện nay. Trải qua hàng ngàn năm bị dân tộc Hoa - một dân tộc du mục thiện chiến phương Bắc - tràn xuống xâm chiếm lãnh thổ, tiếp theo là hàng ngàn năm bị đô hộ và "đồng hóa" nền văn hóa cổ của cả một dân tộc bị ra sức xóa bỏ cùng với chữ viết "Khoa Đẩu".
Bài viết của GS.TSKH Hoàng Tuấn - Giám đốc Trung tâm Unesco, chuyên gia nghiên cứu về văn hóa phương Đông.

Tìm lại nền văn minh bị thất truyền
Tuy nhiên, cốt lõi của nền văn minh nông nghiệp phát triển rất sớm của dân tộc này cùng những "thuần phong mỹ tục" đi theo thì không thể xóa bỏ, nhưng đã bị "đồng hóa" vào nền văn hóa của kẻ chiến thắng, thành nền văn hóa Hán tộc, nhất là từ sau khi chữ Hán Nho được phổ biến.
Kẻ chiến thắng thống trị đã biến chúng thành sản phẩm của chính mình sau khi đã cố gắng xóa bỏ mọi vết tích của nền văn hóa Âu Lạc cổ. Tuy nhiên, các học giả lỗi lạc sau này của chính nước Trung Hoa khi viết về Lịch Toán Can Chi cũng không rõ nguồn gốc lịch này có từ bao giờ và từ đâu lại. Họ chỉ đơn thuần căn cứ vào sự ghi chép đơn giản trong Sử Ký Tư Mã Thiên sau này. Họ vẫn thắc mắc về nguồn gốc hình thành Hệ Can Chi, không hiểu vì sao "con chuột hôi hám" lại có thể đứng đầu 12 Địa Chi! (vì Tý là con chuột). Còn con Rồng (Thìn) cao quý lại phải đứng hàng thứ năm?
Đây không phải là sự phủ nhận nền văn hóa vĩ đại của nước Trung Hoa suốt quá trình lịch sử lâu dài, mà chỉ là để góp phần chứng minh sự đóng góp quan trọng của nền văn minh Việt cổ trong nền văn hóa rộng lớn của các nước Á Đông mà Trung Quốc là đại diện hiện nay. Chắc chắn còn nhiều thiếu sót, tác giả mong bạn đọc bổ cứu để làm sáng tỏ thêm nền văn minh Việt cổ của tổ tiên xưa đã bị thất truyền.
Sử chứng cho vùng đất rộng lớn của người Việt cổ
Nhiều tài liệu cổ của Trung Quốc cũng đã công nhận, các vùng đất rộng lớn giữa lưu vực hai con sông Hoàng Hà và Dương Tử vốn là địa bàn cư trú của dân tộc Bách Việt...
Âu Việt, có chữ Âu, có thể là loại chim phổ biến trên vùng đồi núi, ven các triền sông xưa, gần giống như loài Hải Âu sau này.
Lạc Việt, có chữ Lạc, là loại Ngỗng trời hay bay từng đàn lúc chiều tà để tìm nơi trú ẩn. Từ "Lạc" sau này lại đã biến thành từ "Hạc" và trở thành con "Hạc thờ" ở các Đền - Miếu khắp đất nước từ thời xưa đến nay.
Lãnh thổ của Âu Việt và Lạc Việt: Nhiều tài liệu cổ của Trung Quốc cũng đã công nhận, các vùng đất rộng lớn giữa lưu vực hai con sông Hoàng Hà và Dương Tử vốn là địa bàn cư trú của dân tộc Tam Miêu và Bách Việt, trong đó dân tộc Việt Thường ở phía Nam lưu vực sông Dương Tử, từ hồ Động Đình và Phiên Dương (thuộc tỉnh Hồ Nam, Hồ Bắc và Lưỡng Quảng ngày nay) trở xuống là đã có một nền văn minh lúa nước rất phát triển.
Dựa theo nhiều công trình nghiên cứu về cổ sử và dân tộc học châu Á của nhiều học giả trên thế giới đều có kết luận chung rằng: Người Hoa xưa kia vốn là một bộ tộc du mục thiện chiến ở phía Tây Bắc Trung Quốc, đã sớm thôn tính các quốc gia lân cận thành lập một liên bang rộng lớn miền Bắc Trung Quốc, sau tràn xuống chiếm hết vùng Trung Nguyên và cả miền nam Trung Quốc hiện nay. Thời kỳ tiền sử xa xôi đó, ở lưu vực hai con sông lớn là Hoàng Hà và Dương Tử của Trung Quốc, vốn là địa bàn cư trú của các dân tộc gọi là Tam Miêu và Bách Việt. Gọi là Bách Việt không phải nhất thiết là có 100 giống Việt mà số 100 chỉ là để chỉ nhiều bộ tộc Việt khác nhau chuyên nghề chài lưới, đánh cá và trồng lúa nước, cùng chung sống ở khắp lưu vực các sông này khi xưa mà thôi.
Ngay trên mảnh đất nhỏ hẹp còn lại là nước Việt Nam ngày nay, ngoài dân tộc Kinh chiếm đa số còn tới hơn 50 dân tộc thiểu số anh em khác sinh sống. Như thế thì vào thời cổ đại từ "Bách Việt" chắc chắn là để chỉ vài trăm dân tộc chung sống trên một địa bàn rộng lớn và có nền văn hóa gần giống nhau. Dân Bách Việt xưa gồm: Âu Việt có Miến, Thái, Lào... Miêu Việt có Mèo, Mán, Lô Lô... Lạc Việt có Việt, Mường, Tày, Thổ... Tất cả các chủng Việt này gọi chung là Bách Việt. Sách Trung Quốc xưa còn gọi họ là Viêm Việt (vì họ tìm ra lửa đầu tiên, biết chế tác nhiều thứ từ "lửa" nên gọi là "viêm" - có nghĩa là nhiệt, nóng).
Vì các dân tộc này chiếm cứ khắp vùng Trung Nguyên từ lâu đời, nên họ đã có một nền văn minh lúa nước rất phát triển. Để phục vụ cho nghề nông tất yếu họ phải hiểu biết khá tốt về thiên văn lịch toán và không thể không có chữ viết. Dân tộc Hán dưới thời vua Nghiêu gọi chữ của họ là chữ "Khoa Đẩu, (có lẽ vì chữ buổi sơ khai chỉ là những ký hiệu "chấm trắng" và "chấm đen" nối nhau cùng những vạch đứt và vạch liền, trông giống như những con nòng nọc (• ). Đây cũng chính là các chữ số ghi bằng các ký hiệu trên trong hai bảng Hà Đồ và Lạc Thư cổ.
Sử gia Trung Quốc Chu Cốc Thành trong cuốn "Trung Quốc Thông Sử" của ông cũng viết rằng: "Viêm tộc (chỉ dân Tam Miêu và Bách Việt) đã bước vào nước Tàu trước theo sông Dương Tử. Thoạt đầu chiếm 7 tỉnh Trường Giang rồi tỏa lên phía Bắc chiếm 6 tỉnh Hoàng Hà, rồi lan xuống miền Nam chiếm 5 tỉnh Việt Giang, gồm tất cả 18 tỉnh. Vì thế, khi Hoa tộc vào thì Viêm Việt đã cư ngụ khắp nơi... Mãi sau Hoa tộc mới theo sông Hoàng Hà chiếm 6 tỉnh miền Bắc đẩy dân Tam Miêu đi, rồi mới tỏa xuống phía Nam đẩy lùi Viêm Việt"...
Sự xâm lăng này của Hoa tộc kéo dài nhiều ngàn năm mới đồng hóa nổi các dân tộc phía Nam.
Theo sử gia Mỹ Harald Wiens, tại Đại học Yale (Mỹ), trong cuốn "Chinese expansion in South China" cũng viết: "Viêm Việt đã vào nước Tàu theo ngọn sông Dương Tử miền nước Thục. Vì thế cũng gọi văn minh Viêm Việt là văn hóa Thục Sơn. Trong 600 sắc tộc được nghiên cứu thì nổi bật là Thái và Việt. Thái nổi về chính trị còn Việt nổi về văn hóa".
Như vậy, theo các sử gia lớn trên thì dân Bách Việt đã cư trú trước khắp miền Nam Trung Hoa hiện nay. Trước thời đại Hạ Vũ, nước Tàu mới chỉ là một châu: Châu Đào Dương do vua Nghiêu cai trị, hiệu là Đào Đường. Từ Hạ Vũ về sau mới mở rộng đất đai ra vùng Hoa Hạ và nước Tàu xưa mới trở thành nước Trung Hoa rộng lớn.
Trước nạn bành trướng của người Hán dân Văn Lang xưa luôn tìm cách "cống nạp" để mong bang giao và cầu hòa. Năm thứ 6 đời Thành Vương nhà Chu (tức năm Tân Mão - 1.110 trước CN), sử Trung Quốc cổ cũng chép: "Phía Nam Giao Chỉ có người Việt Thường sang dâng chim Trĩ, qua ba lần thông ngôn, nói rằng: Đường xá xa xôi, non sông cách trở, sợ rằng một lần thông sứ không hiểu tiếng nhau, cho nên phải qua ba lần thông ngôn để sang chầu... Chu Công nói: Đức trạch không khắp tới nơi, người quân tử không nhận lễ sơ kiến. Chính lệnh không khắp tới nơi, người quân tử không nhận người ấy xưng thần... Đến khi sứ giả về quên mất đường, Chu Công cho làm xe chỉ nam... sứ giả đi xe ấy theo đường biển... đầy năm trời mới về đến nước" (Ngự phê thông giám tập lãm - quyển 3 tờ 10).
Như vậy, sứ giả Việt Thường trên phải đi đường biển gần một năm mới về đến nước, rất có thể là sứ thần của các bộ tộc Lạc Việt tận miền lưu vực đồng bằng Bắc bộ ngày nay.
Theo KIẾN THỨC


From: sac le <saclevn@yahoo.com>

Subject: TẠI SAO TỔ TIÊN BÁCH VIỆT LẠI ĐỂ MẤT ĐỊA BÀN SINH SỐNG ĐỒNG BẰNG SÔNG DƯƠNG TỬ (2)
 
TẠI SAO TỔ TIÊN BÁCH VIỆT LẠI ĐỂ MẤT ĐỊA BÀN SINH SỐNG CỦA MÌNH TẠI ĐỒNG BẰNG SÔNG DƯƠNG TỬ?
Hôm nọ có viết “một bài” giải thích vì lý do gì tổ tiên Giòng Giống Bách Việt của mình lại để mất địa bàn sinh sống của mình tại đồng bằng sông Dương Tử, trong đó người viết có “ngoặc luôn hoàn cảnh mất miền Bắc của nước Tầu, tức đồng bằng sông Hoàng Hà vào tay giống Hán, hy vọng sẽ có người am tường về lịch sử nước Tầu sẽ viết đầy đủ hơn về 2 biến cố “Nước Tầu”: Mất vùng đồng bằng sông Hoàng Hà và vùng đồng bằng sông Dương Tử? Người viết chỉ biết là dân cư vùng đồng bằng sông Hoàng Hà và dân cư vùng đồng bằng sông Dương Tử là dân sinh sống bằng nghề nông, tức không quen với săn bắn nên không biết về cung tên, đao kiếm, giáo mác nên khi bị giống Hán từ phương Bắc tràn xuống đánh chiếm đất sinh sống của mình, người dân ở vùng đồng bằng sông Hoàng Hà và sông Dương Tử chỉ có 2 cách: Một là bỏ chạy sâu xuống miền Nam, hai là ở lại, đầu hàng, cam sống kiếp bị trị và bị đồng hóa… và chỉ còn một chi phái của Bách Việt là chạy xuống tới địa bàn Việt Nam hiện nay thì hết đường chạy (vì gặp biển cả bao la), phải cố gắng quay lại “tử chiến” với giống Hán mà còn giữ được nước Việt Nam hiện nay và người ta đang xôn xao nêu lên câu hỏi là Việt Nam làm thế nào đối phó với nạn “Tầu Khựa” đang âm mưu chiếm nốt Việt Nam nhưng chẳng thấy ai viết giúp giải thích dùm. Ngày xưa học lịch sử Việt Nam, có đoạn liên quan đến lịch sử Tầu và biết giống Hán (Chin, do đó sau này người ta gọi người Tầu Là Chin rồi thành nước China và người thành Chinese bây giờ)… Ngày nhỏ chỉ được học về giống Hán (Chin) là người Phương Bắc, vùng Bắc Cực (Thảo Nguyên=đồng cỏ) vì đất lạnh, không thể cầy cấy, trồng trọt nên chỉ có săn bắn muông thú và hái trái cây rừng mà ăn, và vì cuộc đời du mục ấy nên người Miền Bắc (Thảo Nguyên=Đồng Cỏ) phải đuổi bắt thú rừng nên chế ra dao búa, giáo mác, cung tên để đánh, bắn giết các hoang thú và vì cần đuổi bắt thú rừng nên họ cần chạy nhanh để đuổi cho kịp các muông thú nên họ biết bắt nuôi giống ngựa để cưỡi mà đuổi bắt các muông thú khác (như hươu, nai, mang, miễn… và cả cọp, beo…). Vì là giống dân du mục nên đàn ông, nhất là người thanh niên quen sống trên lưng ngựa, ăn ngủ trên lưng ngựa luôn, và nổi danh nhất là đoàn quân Mông Cổ của Thiết Mộc Chân và em là Thành Cát Tư Hãn đã kéo quân ngựa tràn sang cả đến vùng Châu Âu…
Nước Tầu, sau khi bị giống Hán xâm lăng với nhà Hán (Hán Cao Tổ, Hán Văn Đế, Hán Vũ Đế) rồi sau đó thời Nam Hán tràn chiếm xuống Miền Nam (vùng Bách Việt), đánh sang cả đất Mê Linh của 2 Bà Trưng (năm 43 sau Tây Lịch), may mà giống Giao Chỉ (một chi phái của nòi Bách Việt còn quật cường, còn tồn tại cho đến hiện nay…
Trong bài viết trước, tôi đã nêu lên các nguyên nhân tại sao chúng ta mất vùng đất nước Bách Việt (đồng bằng Dương Tử Giang) như trên nhưng người viết chỉ được học theo sách vở có thế thôi, nên cố ý nêu vấn đề để hy vọng có ai học vấn uyên thâm, giúp viết lại toàn bộ diễn tiến lịch sử của toàn bộ nước Tầu và của nòi giống Bách Việt cho con cháu biết, nhưng chờ hoài cũng chẳng thấy ai viết được, chỉ thấy có một người ký tên Lưu Vong Nhân viết chê bai người viết dốt… và được Đại Tá Trần Doãn Thường chuyển cho nên người viết mới biết là Lưu Vong Nhân (một bút hiệu, một tên giả) là người lưu vong, chạy bỏ quê hương cũng chẳng biết làm sao phục hưng, giải phóng đất nước khỏi tay Việt Cộng, giúp Việt Nam “thoát Trung, thoát Tầu”…
Vì là người học lịch sử Việt Nam thật ngắn gọn như trên (vì còn bận lo học lấy một nghề nghiệp để nuôi thân và nuôi cha mẹ), người viết có 2 giai đoạn: Lúc khởi đầu tính học theo nghề giáo (vì trông thấy các thầy cô dậy mình học thật tài giỏi, mong rằng sau này sẽ nối chí các thầy cô dậy lại các đám đàn  sau, và sau này, vì mắc bệnh suyễn nên chuyển qua học y khoa, mong rằng sẽ tìm cách chữa bệnh cho mình, cho các người bệnh khác, nhưng cuộc đời của mình và những người cùng lứa tuổi rốt cuộc cũng chỉ là dang dở nên rốt cuộc cũng chỉ là dở dang… nên biết gì, viết đó, mong có vị nào tài cao, học xa hiểu rộng giúp cho người viết và cho người khác hiểu rõ hơn, xin chân thành cám ơn. Nhớ là chỉ dẫn dùm chứ không phải chửi và chê người viết học dốt nhé, đặc biệt là Lưu Vong Nhân (Người Mất Quê, sống nhờ nước khác, nước người cũng như người viết vậy.
Trân trọng,
BS Lê Văn Sắc
Attachments area

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét