THNT

Thứ Tư, 31 tháng 7, 2019

TC sẽ đột quỵ như Liên xô ?

Lịch sử chính trị cận đại cho thấy các chế độ chuyên chế, độc tài CS suy tàn, sụp đổ và những chế độ tự do dân chủ ngày càng phát sinh và phát triển. Kinh tế cũng vậy phát triển trong chế độ tự do, dân chủ nhưng suy sụp trong chế độ kinh tế chỉ huy tập trung của CS. Hầu hết các kinh tế gia nhận định tự do, dân chủ là điều kiện cần và đủ cho kinh tế phát triển.



Các chế độ CS còn sót lại sau  khi CS Liên xô đột quỵ vì kinh tế tập trung suy bại, cũng đã nhận chân định vấn đề ấy. Nên CS Trung cộng và CS Việt Nam ‘chuyển hệ tư duy, chuyển sang ‘kinh tế thị trường’ để  sống sót. Nhưng CS vẫn giữ cái đuôi ‘theo định hướng xã hội chủ nghĩa’ để tiếp tục độc quyền chính trị.  


  
Thực vậy, thực tế tình hình sau Chiến tranh Lạnh, CS còn kiểm soát được 5 chế độ: Trung Cộng, Cộng sản Bắc Triều Tiên, Cộng sản Cuba, Cộng sản Lào và Cộng sản Việt Nam. Hai chế độ CS lớn nhất là Trung Cộng và Việt Cộng như tắc kè đổi màu chuyển sang kinh tế thị trường theo định hướng  xã hội chủ nghĩa.  Âu, Mỹ giúp đỡ, tưởng lầm khi kinh tế phát triển thì chính trị cùng phát triển. Nhưng sau khi trổi dậy TC trở thành đối thủ của Mỹ.



Tới thời TT Trump càng ngày càng đánh 4 trên 5 chế độ CS còn sót lại trên hành tinh này. Mỗi chế độ CS, Mỹ dùng 1 hay 2 hình thái chiến tranh thế giới khác nhau. Đánh TC bằng Chiến tranh Thương mại rồi lan qua an ninh truyền tin và viễn thông qua vụ Hoa Vi. Cho đến bây giờ chưa đầy 1 năm Mỹ trừng phạt TC, tăng giá thuế quan TC gần hết các mặt hàng TC thường xuất cảng vào Mỹ, coi như bó tay TC trong việc nhập hàng vào Mỹ là một thị trường lớn nhất. 

Còn Nga hậu CS là một chế độ không chính danh CS như TC, nhưng TT Putin là một trung tá tình  báo KGB của Liên xô làm thủ tướng và tổng thống Nga còn lâu hơn Stalin nữa. Ông cai trị Nga như Liên xô mà không có Đảng CS, nhưng đảng của Ông cũng độc tài trong chế tự do, dân chủ giả hiệu thời Putin không thua gì Đảng CS. Mỹ đánh kinh tế, ngoại giao của Putin sau khi Putin chiếm cứ sáp nhập bán đảo Crimea vào Nga, khuấy rối phá hoại phía biên giới phía đông Ukraine.


Nga liên minh và phối họp với TC để đối đầu với Mỹ từ năm 2014. Âu Mỹ đã thi hành các biện pháp trừng phạt Nga. Hậu quả là nền kinh tế của Nga hiện đang gặp rất nhiều khó khăn, cho nên nước này phải quay sang thị trường TC và qua đó bớt lệ thuộc vào các thị trường châu Âu. Trung cộng đã trở thành “nhà đầu tư rất quan trọng” trong nền kinh tế Nga.

Mỹ cũng không quên đánh phá CS Cuba để 'trừng phạt chế độ' CS. Tin BBC 6 tháng 6 năm 2019, Mỹ vừa tuyên bố lệnh cấm các đoàn khách lữ hành Mỹ đi Cuba, đồng thời cấm các chuyến du thuyền tới quốc đảo này. Lịnh này có hiệu lực từ ngày 5/6. Lệnh cấm cũng áp dụng đối với du thuyền và máy bay tư nhân.

Còn CSVN thì chính TT Trump của Mỹ cũng chính thức đứng ra tố giác CSVN. Nào CSVN là ‘kẻ lạm dụng’ thương mại, nào “Việt Nam lợi dụng chúng ta còn tệ hơn cả Trung cộng». VN nhỏ hơn Trung cộng nhưng "còn tệ hơn" cả Trung cộng khi lợi dụng Hoa Kỳ. Trước đó CSVN còn bị Mỹ chỉ mặt đặt tên là kẻ ‘thao túng tiền tệ’. Tin VOA của Mỹ ngày 3/7/, Mỹ sẽ mở rộng đánh thuế lên thép từ Việt Nam. RFI của Pháp ngày 04-07-2019 có một bài tựa đề “Thương chiến Mỹ - Trung: Việt Nam trong thế trên đe dưới búa”. Câu chủ đề của bài viết trên của RFI ‘ Theo báo cáo của bộ Thương Mại Mỹ công bố ngày 03/07/2019, xuất [cảng] khẩu của Việt Nam vào Mỹ trong 5 tháng đầu năm 2019 tăng 36%, cao hơn cả khối lượng hàng hóa của Ấn Độ bán sang Hoa Kỳ… Trong năm 2018, mức xuất siêu của Việt Nam đối với Mỹ lên tới gần 35 tỷ đô la.

TT Trump của Mỹ đã hơn một lần nêu rõ những thất bại gây đại họa của chủ nghĩa xã hội, một cách nói về chủ nghĩa CS. Hôm 25-09-2019 trước Đại Hôi Đồng Liên Hiệp Quốc,  TT Trump kêu gọi các nước trên thế giới chống “chống lại chủ nghĩa xã hội và những đau khổ mà nó đã gây ra cho mọi người” Xã hội Chủ nghĩa tức CS. Ông đơn cử trường hợp ở Venezuela, là một “bi kịch của nhân loại” với “hơn 2 triệu người trốn chạy khỏi đất nước vì chế độ XHCN Maduro và sự hậu thuẫn của Cuba”.

Và khi tái tranh cử nhiệm kỳ hai, TT Trump chọn đề tài chống CS là đề tài lớn.

Mới đây hôm 9 tháng 7 chuyên gia Mỹ theo dõi Trung Cộng, Steven Mosher có một bài phân tích đăng Đại Kỷ Nguyên Thời báo. Cho rằng bất kể nó chọn giữa kiểm soát hay cải cách chính phủ Trung Cộng cuối cùng tự hủy diệt. Chủ tịch TC Tập Cận Bình đang phải đối mặt với một lựa chọn đi theo hướng nào cũng sẽ đối mặt với sự hủy diệt. Về mặt kinh tế dù bằng cách từ chối hay đáp ứng các yêu cầu liên quan đến pháp lý và thương mãi của cộng đồng quốc tế; hoặc, đồng ý với các yêu cầu của Hoa Kỳ, thì sau đó đặt mình vào con đường để mất quyền lực theo thời gian, Giáo sư Mosher nói với Thời báo Đại Kỷ Nguyên.

Các công ty đã chuyển sản xuất sang Trung Cộng từ nhiều thập niên trước, hiện đang quay trở lại Đài Loan. Các công ty ngoại quốc di tản qua các nước khác ở Đông Nam Á. Hệ thống chính trị TC sẽ sụp đổ khi các nhà máy đóng cửa. Các nhà lãnh đạo đảng tại địa phương bảo vệ lợi ích của địa phương chống lại chính quyền trung ương và chống lại các tỉnh khác.

Tin BBC, kinh tế Trung cộng tăng trưởng chậm nhất kể từ thập niên 1990. Số liệu chính thức cho thấy trong ba tháng tính đến tháng 6, nền kinh tế chỉ tăng trưởng 6,2% so với năm trước và với ba tháng đầu năm là 6,4% trong.

Hỏi làm sao kinh tế TC chịu nổi khi Mỹ đánh vào xương sống kinh tế cua TC. Mỹ đánh phá Chiến lược "Made in China 2025" và chiến lược “Một Vành Đai, Một Con Đường” của TC. Đó là hai chiến lược TC mưu toan đánh Mỹ để tranh giành vị thế  đệ nhất siêu cường thế giới của Mỹ.

Mỹ nhận thức được "ý đồ" của Chủ Tịch Bình nên Mỹ đã biến các lĩnh vực công nghiệp và sản phẩm của TC vào trong trọng tâm của cuộc Chiến tranh Thương mại giữa hai nước.

Vi Anh


Sent from my T-Mobile 4G LTE Device

Người đăng: d.khanh42@gmail.com vào lúc 22:50 Không có nhận xét nào:
Gửi email bài đăng nàyBlogThis!Chia sẻ lên XChia sẻ lên FacebookChia sẻ lên Pinterest

PHẬT TỬ KHÔNG NÊN QUÁ GẦN GŨI TĂNG NI ?

PHẬT TỬ KHÔNG NÊN QUÁ GẦN GŨI TĂNG NI ?
Chùa chiền là chốn Thiền môn thanh tịnh, là ngôi nhà giáo pháp che chở cũng như nuôi lớn tình thương, khơi nguồn trí tuệ và giúp chúng ta giải phóng những nỗi khổ niềm đau trong cuộc đời. Vì thế, người Phật tử tại gia, khi tới chùa không nên làm những điều sau:
Phật Tử - Những Điều Không Nên Làm
1. Không nên quá gần gũi, chuyện trò thân mật với chư Tăng Ni.
Vì như thế đôi khi mình xem thường chư Tăng Ni, hoặc nảy sinh tình cảm riêng tư.
2- Không nên một mình (khác giới tính) cố tình gặp gỡ, thưa thỉnh giáo pháp với chư Tăng Ni ở chỗ khuất hoặc nơi không có người.
Vì như thế sẽ dễ gây ra sự hiểu lầm về tình cảm.
3- Không nên kết nghĩa anh em, chị em, cha con, mẹ con với chư Tăng Ni.
Vì chư Tăng Ni đã “cắt ái từ thân” để xuất gia tu hành. Nếu mình làm như vậy có nghĩa là đẩy chư Tăng Ni vào thế bất hiếu với cha mẹ ruột, bất nghĩa với anh em ruột. Bởi đã làm con phải có bổn phận báo hiếu và đền ơn.
4- Không nên vì quá thân mà có những hành động như nắm tay, sửa áo cho chư Tăng Ni.
Vì như thế dễ gây ra cảm thọ thích thú trần tục.
5- Không nên ngồi trực diện rồi nhìn một cách đắm đuối, say mê vào mắt của chư Tăng Ni trong khi nói chuyện.
Vì như thế nhãn xúc của mình sẽ sinh ra cảm thọ, rồi thọ sinh ra ái, tức thích ngắm, dễ gây ra sự muốn nắm giữ. Đó là ái sinh thủ!
6- Không nên thường xuyên gọi điện, chat chít hoặc liên lạc bằng bất cứ hình thức nào với chư Tăng Ni.
Vì như thế sẽ tạo thành thói quen. Nếu không chuyện trò được sẽ cảm thấy khó chịu. Đôi khi vì thương mình nên chư Tăng Ni phải cố gắng cầm máy cho mình vui. Nhưng nếu lâu ngày cũng sẽ dẫn đến thói quen không nên có.
7- Không nên nhắc tới chư Tăng Ni một cách thao thao bất tuyệt trước mặt vợ hoặc chồng mình khi họ chưa phải là Phật tử.
Vì như thế dễ gây nên sự hiểu nhầm, thậm chí là ghen tuông vô cớ làm mất hoà khí gia đình.
8- Không nên không cung kính cha mẹ như cung kính chư Tăng Ni khi thỉnh mời chư Tăng Ni về nhà mình có duyên sự, hay dẫn cha mẹ vào chùa.
Vì như thế sẽ làm cha mẹ buồn khi cha mẹ chưa biết về đạo Phật. Nên nhớ, cha và mẹ chính là hai vị Phật ở trong nhà để chúng ta cung dưỡng suốt đời.
Phật Tử - Những Điều Không Nên Làm
9- Không nên vì được chư Tăng Ni tin tưởng giao phó công việc mà tỏ thái độ khinh khi người khác.
Vì như thế là mình đang lạm dụng quyền lực để hà khắc người khác. Như vậy chính mình đang tự chuốc lấy bệnh kiêu căng!
10- Không nên nhận lãnh trách nhiệm lo toan việc ẩm thực, bếp núc ở trong chùa.
Vì sao?
Vì nhà bếp là đầu mối lớn nhất gây ra sự mâu thuẫn, chia bè, rẽ cánh trong đạo tràng. Bởi những người nhận lãnh công việc này đôi khi vì áp lực công việc nhiều nên dễ sinh tâm cáu gắt, bực dọc. Đôi khi vì tính bảo thủ, không nghe những lời góp ý của người khác nên sinh tâm cố chấp. Đôi khi thấy mình là người quan trọng nên sinh tâm kiêu mạn, coi thường người khác. Thậm chí kể cả chư Tăng Ni trẻ ở trong chùa. Trên thực tế đã xảy ra trường hợp nhà bếp biểu tình nên cả chùa hôm đó phải ăn mì gói.
Biết được nguyên nhân như thế nên nhiều chùa không giao phó công việc này cho giới cư sỹ. Mọi việc bếp núc đều do chư Tăng Ni trong chùa đảm trách. Ai có lòng thì phụ giúp công quả một tay. Vì vậy không còn sự mâu thuẫn hay cãi cọ sinh ra từ nhà bếp.
11- Không nên mang thực phẩm mặn vào chùa (bắc truyền) bằng bất cứ hình thức nào.
Vì như thế là mình đang làm hư hoại giáo pháp, phỉ báng giáo pháp, đồng hành với việc dung túng cho việc phá giới.
12- Không nên chấp rằng đây là chùa tôi, thầy của tôi, rồi sinh tâm phân biệt, so sánh, thậm chí là dèm pha đối với chư Tăng Ni hoặc bạn đạo ở các chùa khác.
Nên nhớ, Tăng là một đoàn thể tu hành thanh tịnh gồm bốn vị trở lên. Mỗi khi chúng ta đã phát nguyện rằng: Tự quy y Phật, tự quy y Pháp và tự quy y Tăng, tức là chúng ta đã tự quy y với tất cả chư Tăng Ni trong khắp mười phương. Sau khi quy y trở thành Phật tử cũng đồng nghĩa tất cả là con một nhà.
13- Không nên thấy người khác thân cận chư Tăng Ni bấy lâu mình cung kính và cung dưỡng mà sinh tâm ganh tị.
Vì như thế là mình đang dính mắc thói hẹp hòi và ích kỷ.
Phật Tử - Những Điều Không Nên Làm
14- Không nên mặc đồ hở hang, cụt cỡn khi tới chùa. Ví dụ như:
– Không nên mặc áo bó sát người làm cho vòng 1 nổi bật.
– Không nên mặc áo rộng cổ, làm lộ rõ những đường nét của phần trên cơ thể.
– Không nên mặc áo xẻ tà quá cao để khoe phần hông sườn.
– Không nên mặc quần cộc bên trong rồi khoác áo tràng bên ngoài. Mỗi khi ngồi xuống hay đứng lên đều tạo ra sự kịch cỡm không đẹp mắt.
– Không nên mặc áo quá ngắn và quần cạp trễ. Để rồi mỗi khi mình cúi lạy hoặc làm việc gì đó thì hở hết phần mông ra ngoài, rất dễ gây phản cảm cho mọi người xung quanh.
– Không nên mặc các loại quần áo quá mỏng rồi đi lại hoặc đứng ở trước các lối cửa ra vào có nhiều ánh sáng. Vì từ góc tối nhìn ra, cơ thể mình sẽ bị “hiện rõ nguyên hình” giống như kính chiếu yêu vậy.
Vì như thế sẽ làm mất đi vẻ đẹp mỹ quan thanh tịnh chốn thiền môn.
Vì như thế mình sẽ trở thành người không biết sự xấu hổ.
Vì như thế mình đang đánh mất đi nét thuần phong mỹ tục truyền thống.
15- Không nên mang chuyện thị phi vào chùa để đàm tếu, phù phiếm.
Vì chùa là nơi thanh tịnh trang nghiêm, là môi trường tốt để học tập và tu dưỡng các điều đạo đức. Chính vì thế cho nên mình hãy cùng nhau gìn giữ và bảo vệ thật tốt, xin đừng làm ô nhiễm môi trường thanh tịnh đó.
16- Không nên cho rằng mình là người Phật tử đi chùa và phụng sự lâu năm ở đây mà tranh giành chỗ ngồi tốt với những người khác.
Vì như thế là đang rơi vào sự “tu càng lâu, ngã mạn càng nhiều”.
17- Không nên tự ý xông thẳng vào phòng, thất của chư Tăng Ni mà không gõ cửa hoặc chưa được phép.
Vì như thế là mất lịch sự và không tôn trọng quyền riêng tư.
18- Không nên nói lời thô tục, nói lời đưa đẩy nịnh hót, nói lời trăng hoa, nói lời phù phiếm, nói lời hung dữ, ngữ điệu khó nghe, làm náo loạn sân chùa.
Vì như thế là đang tạo ra khẩu nghiệp xấu ác tại nơi thanh tịnh.
Phật Tử - Những Điều Không Nên Làm
19- Không nên cùng một lúc thắp hương (nhang) quá nhiều trong chánh điện.
Vì như thế tượng Phật và chánh điện sẽ nhanh bị hoen ố bởi khói hương, dẫn đến việc tốn tiền, tốn công, tốn sức của nhà chùa phải sơn sửa lại. Ngoài ra còn dễ gây hoả hoạn.
20- Không nên ganh tỵ với những người bạn đạo khi thấy họ cúng dường Tam Bảo nhiều hơn mình. Khả năng bao nhiêu thì cúng dường bấy nhiêu, đừng cố gắng vay mượn để cúng dường Tam Bảo cho bằng chị bằng em, để rồi phải mắc nợ.
Vì trước khi cúng, trong khi cúng và sau khi cúng, dù ít dù nhiều, khi tâm chúng ta được thanh tịnh và hoan hỷ thì phước báu như nhau.
21- Không nên ỷ vào mình là một trong những đại thí chủ rồi tự cho mình có tiếng nói và quyền hành quan trọng nên bắt buộc chư Tăng Ni phải chiều theo ý mình. Nếu không chiều theo thì mình bỏ chùa và không còn tiếp tục đóng góp nữa.
Vì như thế là tâm tham đắm danh vọng và lòng kiêu mạn đang nổi lên.
22- Không nên ỷ vào việc mình lập chùa, thỉnh mời chư Tăng Ni về trụ trì, rồi tự cho mình được quyền tổ chức, quản lý nhất cử nhất động của chư Tăng Ni (đặc biệt ở hải ngoại).
Vì như thế mình đang trở thành “ban trị Sư”, cầu danh, cầu lợi bất chính.
23- Không nên mải mê với các việc Phật sự, công quả hay công phu trong chùa mà lơ là công việc, bổn phận và trách nhiệm trong gia đình.
Vì như thế là mình đang rơi vào tình cảnh “đạo muốn dời mà đời không muốn bỏ”. Làm cho cha mẹ, vợ chồng, con cái buồn lo.
Vẫn còn đó những điều không nên làm khi tới chùa. Kính mong quý Ngài, chư vị minh đức soi sáng thêm cho chúng con. Để chúng con, những người tại gia học Phật góp phần giữ gìn và tôn vinh thêm nét đẹp thanh tịnh ở chốn Thiền môn.
( Sưu tầm )

Người đăng: d.khanh42@gmail.com vào lúc 12:40 Không có nhận xét nào:
Gửi email bài đăng nàyBlogThis!Chia sẻ lên XChia sẻ lên FacebookChia sẻ lên Pinterest

Đọc và Nghe đọc truỵên Cái Giọng Nói Của Người Sài Gòn, tác giả Nguyễn Đình Khạ́nh.

Chuyện cái giọng Sài Gòn

SAIGON XƯA

 0
 Share
Giọng nói người Sài Gòn không sang trọng, điệu đà như giọng người dân đất Bắc, cũng chẳng trầm lắng, thanh thanh như tiếng Huế, cái giọng Sài Gòn đi vào tai, vào lòng, vào cách cảm, và nỗi nhớ nhung của người Sài Gòn lẫn dân miền khác bằng sự ngọt ngào của sông nước Nam Bộ, bằng cái chân chất thật thà của truyền thống xa xưa, và bằng cả cái “chất Sài Gòn” chảy mạnh trong từng mạch máu người dân Sài Gòn. Đi đâu, xa xa Sài Gòn, bỗng dưng nghe một tiếng “Dạ!” cùng những tiếng “hen, nghen” lại thấy đất Sài Gòn như đang hiện ra trước mắt với những nhớ thương.
Có dạo đọc trong một bài viết về Sài Gòn – Gia Định của nhà văn Sơn Nam, có thấy ông viết giọng Sài Gòn, cũng như văn hóa và con người Sài Gòn là một sự pha trộn và giao thoa đến hợp nhất của nhiều nơi. Đó là những người Chăm bản địa, những người khách Hoa, những người miền Trung đầu tiên đến đất Gia Định…Từ đó hình thành một loại ngôn ngữ vừa bản địa, vừa vay mượn của những người đi mở đất…
Giọng người Sài Gòn được xem là giọng chuẩn của miền Nam, cũng như giọng người Hà Nội được xem là giọng chuẩn của người miền Bắc. Giọng chuẩn tức là giọng không pha trộn, không bị cải biến đi qua thời gian. Như nói về giọng chuẩn của người Hà Nội, người ta nói đến chất giọng ấm nhẹ, khi trầm khi bổng, khi sắc khi thanh, và chẳng ai phủ nhận người Hà Nội nói chuyện rất hay và “điêu luyện”.
Cái “điêu luyện” ấy như thuộc về bản chất của người Hà Nội mà chỉ người Hà Nội mới có được. Nếu nói là người Việt Nam nói như hát, thì đúng ra chỉ có người Hà Nội là “nói như hát” mà thôi, họa chăng chỉ có giọng Huế của người con gái Huế trầm tư mới cùng được ví von thế…

 tt
Người Sài Gòn thì khác, giọng Sài Gòn cũng khác. Không ngọt ngào mía lùi như một số người dân Tây Nam Bộ ven vùng sông nước mênh mang chín rồng phù sa, không nặng nề cục mịch như người miền Đông Nam Bộ nóng cháy da thịt, giọng người Sài Gòn cũng ngọt, nhưng là cái ngọt thanh hơn, nhẹ hơn.
Đó là chất giọng “thành thị” đầy kiêu hãnh của người Sài Gòn, chẳng lẫn vào đâu được mà dù người khác có bắt chước cũng khó lòng. Dường như qua nhiều năm cùng với đất Gia Định – Sài Gòn phù hoa trong nhịp sống, trong đổi mới và phát triển, thì giọng nói của người Sài Gòn cũng trở nên “cao sang” hơn. Dù vậy, có cái “thanh” của một vùng đất một thời là thủ phủ Nam Bộ, nhưng cũng chẳng mất đi đâu cái mộc mạc không bỏ được của cái gốc chung Nam Bộ.
Giọng người Sài Gòn nói lên nghe là biết liền. Ngồi nghe hai người Sài Gòn nói chuyện cùng nhau ở một quán nước, bên đường hay qua điện thoại, dễ dàng nhận ra họ. Cái giọng không cao như người Hà Nội, không nặng như người Trung, mà cứ ngang ngang sang sảng riêng… Mà điều đặc biệt trong cách người Sài Gòn nói chuyện cùng nhau là mấy từ “nghen, hen, hén” ở cuối câu…
Người miền khác có khoái, có yêu người Sài Gòn thì cũng vì cách dùng từ “nghen, hen” này. Khách đến nhà chơi, chủ nhà tiếp. Khách về, cười rồi buông một câu “Thôi, tôi dzìa nghen!” – Chủ nhà cũng cười “Ừ, dzậy anh dìa hen!”. Nói chuyện điện thoại đã đời, để kết câu chuyện và cúp máy, một người nói “Hổng còn gì nữa, dzậy thôi hen!”. “Thôi” ở đây nghĩa là dừng lại, kết thúc, chấm dứt gì đó. Hai đứa bạn nói chuyện cùng nhau, bắt gặp cái gì vui, quay đầu sang đứa kế bên “Hay hén mậy?” bằng giọng điệu thoải mái…
Giọng người Sài Gòn đôi khi diễn đạt cùng một câu nói, nhưng lại bằng nhiều cung bậc giọng điệu khác nhau lại mang ý nghĩa khác nhau. Đám nhỏ quậy, nghịch phá, người chị mắng, giọng hơi gằn lại và từng tiếng một, có chút hóm hỉnh trong đó “Dzui dzữ hen!”. Đám bạn cùng tuổi, ngồi chơi chung, cười đùa, một người nói giọng cao cao vui vẻ “Dzui dzữ hen!”…
Người Sài Gòn có thói quen hay “đãi” giọng ở chữ cuối làm câu nói mang một sắc thái khác khi hờn giận, khi đùa vui như “Hay dzữuuu”, “Giỏi dzữưưu…!” Nghe người Sài Gòn nói chuyện, trong cách nói, bắt gặp “Thôi à nghen”, “Thôi à!” khá nhiều, như một thói quen và cái “duyên” trong giọng Sài Gòn.
Người Sài Gòn nói chuyện, không phát âm được một số chữ, và hay làm người nghe lẫn lộn giữa âm “d,v,gi” cũng như người Hà Nội phát âm lẫn các từ có phụ âm đầu “r” vậy. Nói thì đúng là sai, nhưng viết và hiểu thì chẳng sai đâu, đó là giọng Sài Gòn mà, nghe là biết liền. Mà cũng chẳng biết có phải là do thật sự người Sài Gòn không phát âm được những chữ ấy không nữa, hay là do cách nói lẫn từ “d,v,gi” ấy là do quen miệng, thuận miệng và hợp với chất giọng Sài Gòn. Ví như nói “Đi chơi dzui dzẻ hen mậy!” thì người Sài Gòn nói nó… thuận miệng và tự nhiên hơn nhiều so với nói “Đi chơi vui vẻ hen!”. Nói là “vui vẻ” vẫn được đấy chứ nhưng cảm giác nó ngường ngượng miệng làm sao đó.
Người Sài Gòn nói riêng và miền Nam nói chung, có thói quen dùng từ “dạ” khi nói chuyện, khác với người miền Bắc lại dùng từ “vâng”. Để ý sẽ thấy ít có người Sài Gòn nào nói từ “vâng”. Khi có ai gọi, một người Sài Gòn nói “vâng!” là trong dáng dấp của câu nói đó có giọng đùa, cười cợt. Khi nói chuyện với người lớn hơn mình, người dưới thường đệm từ “dạ” vào mỗi câu nói. “Mày ăn cơm chưa con? – Dạ, chưa!”; “Mới dìa/dzề hả nhóc? – Dạ, con mới!”… Cái tiếng “dạ” đó, không biết sao trong cảm giác nghe của một người Sài Gòn với một người Sài Gòn thấy nó “thương” lạ… dễ chịu mà gần gũi, nhẹ nhàng mà tình cảm lắm lắm. Cảm giác nó thật riêng so với những nơi khác. Nghe một tiếng “dạ” là biết ngay tên này là dân miền Nam cái đã rồi hẳn hay.
Một người miền khác, có thể là Bắc hoặc Trung, diễn tả một khoảng thời gian ngắn vài ngày thì nói “Từ bữa đó đến bữa nay”, còn người Sài Gòn thì nói “Hổm nay”, “hổm rày”, “dạo này”… người khác nghe sẽ không hiểu, vì nói chi mà ngắn gọn ghê. (Lại phát hiện thêm một điều là người Sài Gòn hay dùng từ “ghê” phía sau câu nói để diễn tả một sắc thái tình cảm riêng. Tiếng “ghê” đó chẳng hàm ý gì nhiều, nó mang ý nghĩa là“nhiều”, là “lắm”. Nói “Nhỏ đó xinh ghê!” nghĩa là khen cô bé đó xinh lắm vậy).
Lại so sánh từ “hổm nay” với “hổm rày” hay nghe ở các vùng quê Nam Bộ, cũng một ý nghĩa như nhau, nhưng lại không hoàn toàn giống nhau. Nghe người Sài Gòn dùng một số từ “hổm rày, miết…” là người Sài Gòn bắt chước người miền sông nước vậy. Nhưng nghe vẫn không trái tai, không cảm thấy gượng, vì trong người Sài Gòn vẫn còn cái chất Nam Bộ chung mà.
Nghe một đứa con trai Sài Gòn nói về đứa bạn gái nào đó của mình xem… “Nhỏ đó xinh lắm!”, “Nhỏ đó ngoan!”… Tiếng “nhỏ” mang ý nghĩa như tiếng “cái” của người Hà Nội. Người Sài Gòn gọi “nhỏ Thuý, nhỏ Lý, nhỏ Uyên” thì cũng như “cái Thuý, cái Uyên, cái Lý” của người Hà Nội thôi.
Nói một ai đó chậm chạp, người Sài Gòn kêu “Thằng đó làm gì mà cứ cà rề cà rề…nhìn phát bực!”. Nghe cứ như là đùa, chẳng làm câu nói nặng nề lắm. Một người lớn hơn gọi “Ê, nhóc lại nói nghe!” hay gọi người bán hàng rong “Ê, cho chén chè nhiều nhiều tiền ít coi!”… “Ê” là tiếng Sài Gòn đó, coi gọi trổng không vậy mà chẳng có ý gì đâu, có thể nói đó là thói quen trong cách nói của người Sài Gòn.
Mà người Sài Gòn cũng lạ, mua hàng gì đó, thường “quên” mất từ “bán”, chỉ nói là “cho chén chè, cho tô phở”… “cho” ở đây là mua đó nghen. Nghe người Sài Gòn nói chuyện với nhau, thường bắt gặp thế này “Lấy cái tay ra coi!”, “Ngon làm thử coi!”, “Cho miếng coi!”, “Nói nghe coi!”…“Làm thử” thì còn “coi” được, chứ “nói” thì làm sao mà “coi” cho được nè ?
Vậy mà người Sài Gòn lại nói, từ “coi” cũng chỉ như là một từ đệm, dân Sài Gòn nói dzậy mà. Ngồi mà nghe người Sài Gòn nói chuyện cùng nhau thì quái lắm, lạ lắm, không ít người sẽ hỏi “mấy từ đó nghĩa là gì dzậy ta?” – Mà “dzậy ta” cũng là một thứ “tiếng địa phương” của người Sài Gòn à. Người Sài Gòn có thói quen hay nói “Sao kỳ dzậy ta?”, “Sao rồi ta?”, “Được hông ta?”… Nghe như là hỏi chính mình vậy đó, mà… hổng phải dzậy đâu nghen, kiểu như là nửa hỏi người, nửa đùa đùa vậy mà.
Tiếng Sài Gòn là thế đó, nếu bạn giả giọng Sài Gòn nói chuyện, dù có giống cách mấy mà bỏ quên mấy tiếng đệm, mấy tiếng Sài Gòn riêng riêng này thì đúng là… “bạn hông biết gì hết chơn hết chọi!”
Nguồn: Hải Phan (e.LasanMossard)

260 TỪ NGỮ THÔNG DỤNG CỦA DÂN SÀI GÒN VÀ NGƯỜI MIỀN NAM

12 Tháng Mười Hai, 2015 at 01:14




Tổng hợp 260 từ ngữ thông dụng của dân Saigon xưa nói riêng & người miền Nam ngày nay nói chung !
1. À nha = thường đi cuối câu mệnh lệnh dặn dò, ngăn cấm (không chơi nữa à nha)
2. Áo thun ba lá, áo ba lỗ = Áo may ô
3. Ăn coi nồi, ngồi coi hướng = Ăn trông nồi, ngồi trông hướng
4. Âm binh = phá phách (mấy thằng âm binh = mấy đứa nhỏ phá phách)
5. Bà chằn lửa = người dữ dằn (dữ như bà chằn)
6. Ba ke, Ba xạo
7. Bá Láp Bá Xàm
8. Bá chấy bù chét
9. Bà tám = nhiều chuyện (thôi đi bà tám = đừng có nhiều chuyện nữa, đừng nói nữa)
+ Bà quại = bà ngoại
10. Bang ra đường = chạy ra ngoài đường lộ mà không coi xe cộ, hoặc chạy ra đường đột ngột, hoặc chạy nghênh ngang ra đường
11. Bạt mạng = bất cần, không nghĩ tới hậu quả (ăn chơi bạt mạng)
12. Bặc co tay đôi = đánh nhau tay đôi
13. Bặm trợn = trông dữ tợn, dữ dằn
14. Bất thình lình = đột ngột
15. Bẹo = chưng ra (gốc từ cây Bẹo gắn trên ghe để bán hàng ở chợ nổi ngày xưa)
16. Bẹo gan = chọc cho ai nổi điên
17. Bề hội đồng = hiếp dâm tập thể
18. Bển = bên đó, bên ấy (tụi nó đang chờ con bên bển đó!)
19. Biết đâu nà, biết đâu nè = biết đâu đấy
20. Biệt tung biệt tích = không thấy hiện diện
21. Biểu (ai biểu hổng chịu nghe tui mần chi! – lời trách nhẹ nhàng) = bảo
22. Bình thủy = phích nước
23. Bình-dân = bình thường
24. Bo bo xì = nghỉ chơi không quen nữa (động tác lấy tay đập đập vào miệng vừa nói của con nít)
25. Bỏ qua đi tám = cho qua mọi chuyện đừng quan tâm nữa (chỉ nói khi người đó nhỏ vai vế hơn mình)
26. Bỏ thí = bỏ
27. Bùng binh = vòng xoay
28. Bội phần = gấp nhiều lần
29. Buồn xo = rất buồn ( làm gì mà coi cái mặt buồn xo dậy? )
30. Bữa = buổi/từ đó tới nay (ăn bữa cơm rồi về/bữa giờ đi đâu mà hổng thấy qua chơi?)
31. Cà chớn cà cháo = không ra gì
32. Cà chớn chống xâm lăng -Cù lần ra khói lửa.
33. Cà kê dê ngỗng = dài dòng.
34. Cà Na Xí Muội
+ Cà rá = chiếc nhẫn
35. Cà nhỗng = rảnh rỗi không việc gì để làm (đi cà nhỗng tối ngày)
36. Cà nghinh cà ngang = nghênh ngang
37. Cà rem = kem
38. Cà rịt cà tang = chậm chạp.
39. Cà tàng = bình thường, quê mùa,…
40. Cái thằng trời đánh thánh đâm
41. Càm ràm = nói tùm lum không đâu vào đâu/nói nhây
Coi được hông?
42. Cù lần, cù lần lữa = từ gốc từ con cù lần chậm chạp, lề mề, chỉ người quá chậm lụt trong ứng đối với chung quanh … (thằng này cù lần quá!)
43. Cụng = chạm
44. Cứng đầu cứng cổ
45. Chà bá , tổ chảng, chà bá lửa = to lớn, bự
46. Chàng hãng chê hê = banh chân ra ngồi ( Con gái con đứa gì mà ngồi chàng hãng chê hê hà, khép chưn lại cái coi! )
47. Cha chả = gần như từ cảm thán “trời ơi! ” (Cha chả! hổm rày đi đâu biệt tích dzậy ông?)
48. Chả = không ( Nói chả hiểu gì hết trơn hết trọi á!)
+ Chả = thằng chả / thằng cha kia
49. Chậm lụt = chậm chạp, khờ
50. Chém vè (dè)= trốn
51. Chén = bát
52. Chèn đét ơi, mèn đét ơi, chèn ơi, Mèn ơi = ngạc nhiên
53. Chết cha mày chưa! có chiện gì dậy? = một cách hỏi thăm xem ai đó có bị chuyện gì làm rắc rối không
54. Chì = giỏi (anh ấy học “chì” lắm đó).
55. Chiên = rán
56. Chịu = thích, ưa, đồng ý ( Hổng chịu đâu nha, nè! chịu thằng đó không tao gả luôn)
57. Chỏ = xía, xen vào chuyện người khác
58. Chổ làm, Sở làm = hãng, xưởng, cơ quan công tác
59. Chơi chỏi = chơi trội, chơi qua mặt
60. Chùm hum = ngồi bó gối hoặc ngồi lâu một chổ không nhúc nhích, không quan tâm đến ai (có gì buồn hay sao mà ngồi chùm hum một chổ dậy?)
61. Chưn = chân
62. Chưng ra = trưng bày
63. Có chi hông? = có chuyện gì không?
64. Dạ, Ừa (ừa/ừ chỉ dùng khi nói với người ngang hàng) = Vâng, Ạ
Dạo này = thường/nhiều ngày trước đây đến nay (Dạo này hay đi trễ lắm nghen! /thường)
65. Dấm da dấm dẳng
66. Dây = không có dây dzô nó nghe chưa = không được dính dáng đến người đó
67. Dễ tào = dễ sợ
68. Dì ghẻ = mẹ kế
69. Dĩa = Đĩa
70. Diễn hành, Diễn Binh= diễu hành, diễu binh (chữ diễu bây giờ dùng không chính xác, thật ra là “diễn” mới đúng)
71. Diễu dỡ = làm trò
72. Dỏm (dởm), dỏm đời, dỏm thúi, đồ lô (sau 1975, khi hàng hóa bị làm giả nhiều, người mua hàng nhầm hàng giả thì gọi là hàng dởm, đồ “lô” từ chữ local=nội địa)
73. Dô diên (vô duyên) = không có duyên (Người đâu mà vô diên thúi vậy đó hà – chữ “thúi’ chỉ để tăng mức độ chứ không có nghĩa là hôi thúi)
74. Du ngoạn = tham quan
75. Dù = Ô
76. Dục (vụt) đi = vất bỏ đi (giọng miền nam đọc Vụt = Dục âm cờ ít đọc thành âm tờ, giống như chữ “buồn” giọng miền nam đọc thành “buồng”)
77. Dùng dằng = ương bướng
78. Dữ hôn và …dữ …hôn…= rất ( giỏi dữ hén cũng có nghĩa là khen tặng nhưng cũng có nghĩa là đang răn đe trách móc nhẹ nhàng tùy theo ngữ cảnh và cách diễn đạt của người nói ví dụ: “Dữ hôn! lâu quá mới chịu ghé qua nhà tui nhen”, nhưng “mày muốn làm dữ phải hôn” thì lại có ý răn đe nặng hơn )
79. Dzìa, dề = về (thôi dzìa nghen- câu này cũng có thể là câu hỏi hoặc câu chào tùy ngữ điệu lên xuống người nói)
80. Dzừa dzừa (vừa) thôi nhen = đừng làm quá
81. Đá cá lăn dưa = lưu manh
82. Đa đi hia = đi chỗ khác.
83. Đài phát thanh = đài tiếng nói
84. Đàng = đường
85. Đặng = được (Qua tính vậy em coi có đặng hông?)
86. Đen như chà dà (và) = đen thui, đen thùi lùi = rất là đen
+ Đền = bồi thường
87. Đêm nay ai đưa em dìa = hôm nay về làm sao, khi nào mới về (một cách hỏi) – từ bài hát Đêm nay ai đưa em về của NA9
88. Đi bang bang = đi nghênh ngang
89. Đi cầu = đi đại tiện, đi nhà xí
90. Đó = đấy , nó nói đó = nó nói đấy
91. Đồ già dịch = chê người mất nết
92. Đồ mắc dịch = xấu nết tuy nhiên, đối với câu Mắc dịch hông 93. nè! có khi lại là câu nguýt – khi bị ai đó chòng ghẹo
94. Đờn = đàn
95. Đùm xe = Mai-ơ
96. Được hem (hôn/hơm) ? = được không ? chữ hông đọc trại thành hôn, hem hoặc hơm
97. Ghẹo, chòng ghẹo = chọc quê
98. Ghê = rất – hay ghê há tùy theo ngữ cảnh và âm điệu thì nó mang ý nghĩa là khen hoặc chê
99. Gớm ghiết = nhìn thấy ghê, không thích
100. Giục giặc, hục hặc = đang gây gổ, không thèm nói chuyện với nhau (hai đứa nó đang hục hặc!)
101. Hãng, Sở = công ty, xí nghiệp
102. Hay như = hoặc là
103. Hậu đậu = làm việc gì cũng không tới nơi tới chốn
Hết = chưa, hoặc chỉ nâng cao mức độ nhấn mạnh (chưa làm gì hết)
104. Hết trơn hết trọi = chẳng, không – “Hết Trọi” thường đi kèm thêm cuối câu để diễn tả mức độ (Ở nhà mà hổng dọn dẹp phụ tui gì hết trơn (hết trọi) á! )
105. Hồi nảo hồi nào = xưa ơi là xưa
106. Hổm rày, mấy rày = từ mấy ngày nay
107. Hổng có chi! = không sao đâu
108. Hổng chịu đâu
109. Hổng thích à nhen!
110. Hột = hạt (hột đậu đen, đỏ) miền nam ghép cả Trứng hột vịt thay vì chỉ nói Trứng vịt như người đàng ngoài
111. Hợp gu = cùng sở thích
112. Ì xèo = tùm lum, …
113. năn nỉ ỉ ôi
114. Kẻo = coi chừng
115. Kể cho nghe nè! = nói cho nghe
116. Kêu gì như kêu đò thủ thiêm = kêu lớn tiếng, kêu um trời,….
Lanh chanh
117. Làm (mần) cái con khỉ khô = không thèm làm
118. Làm (mần) dzậy coi được hông?
119. Làm dzậy coi có dễ ưa không? = một câu cảm thán tỏ ý không thích/thích tùy theo ngữ cảnh
120. Làm gì mà toành hoanh hết zậy
121. Làm nư = lì lợm
122. Làm um lên: làm lớn chuyện
123. Lặc lìa = muốn rớt ra, rời ra nhưng vẫn còn dính với nhau chút xíu
124. Lần = tìm kiếm (biết đâu mà lần = biết tìm từ chổ nào)
125. Lần mò = tìm kiếm, cũng có nghĩa là làm chậm chạm (thằng tám nó lần mò cái gì trong đó dậy bây?)
126. Lắm à nhen = nhiều, rất (thường nằm ở cuối câu vd: thương lắm à nhen)
127. Lẹt đẹt = ở phía sau, thua kém ai ( đi lẹt đẹt! Lảm gì (làm cái gì) mà cứ lẹt đẹt hoài vậy)
128. Lao-tổn (cách dùng từ của Ông Nguyễn Văn Vĩnh có gạch nối ở giữa)
129. Lao-cần (cách dùng từ của Ông Nguyễn Văn Vĩnh có gạch nối ở giữa)
130. Lên hơi, lấy hơi lên = bực tức (Nghe ông nói tui muốn lên hơi (lấy hơi lên) rồi đó nha!
131. Liệu = tính toán
132. Liệu hồn = coi chừng
133. Lô = đồ giả, đồ dỡ, đồ xấu (gốc từ chữ local do một thời đồ trong nước sản xuất bị chê vì xài không tốt)
134. Lộn = nhầm (nói lộn nói lại)
135. Lộn xộn = làm rối
136. Lụi hụi = ???? (Lụi hụi một hồi cũng tới rồi nè!)
137. Lùm xùm = rối rắm,
138. Lụt đục = không hòa thuận (gia đình nó lụt đục quài)
139. Má = Mẹ
140. Ma lanh, Ma le
141. Mã tà = cảnh sát
142. Mari phông tên = con gái thành phố quê mùa
143. Mari sến = sến cải lương
144. Mát trời ông địa = thoải mái
145. Máy lạnh = máy điều hòa nhiệt độ
146. Mắc cười = buồn cười
147. Mắc dịch = Mất nết, không đàng hoàng, lẳng lơ, xỏ lá, bởn cợt.
148. Mặt chù ụ một đống, mặt chầm dầm
149. Mần ăn = làm ăn
150. Mần chi = làm gì
151. Mậy = mày ( thôi nghen mậy = đừng làm nữa)
152. Mét = mách
153. Miệt, mai, báo, tứ, nóc… chò = 1, 2, 3, 4, 5…. 10.
154. Mình ên = một mình (đi có mình ên, làm mình ên)
155. Mò mẫm rờ rẫm sờ sẩm (hài) = mò
156. Mồ tổ! = câu cảm thán
157. Mả = Mồ
158. Muỗng = Thìa, Môi
159. Mút mùa lệ thủy = mất tiêu
160. Nam Tàu Bắc Đẩu
161. Nào giờ = từ trước tới nay
162. Niềng xe = vành xe
163. Ngang tàng = bất cần đời
164. Nghen, hén, hen, nhen
165. Ngoại quốc = nước ngoài
166. Ngon bà cố = thiệt là ngon
167. Ngộ = đẹp, lạ (cái này coi ngộ hén)
168. Ngồi chồm hổm = ngồi co chân ….chỉ động tác co gập hai chân lại theo tư thế ngồi … Nhưng không có ghế hay vật tựa cho mông và lưng … (Chợ chồm hổm – chợ không có sạp)
169. Ngủ nghê
170. Nhan nhản = thấy cái gì nhiều đằng trước mặt
171. Nhắc chi chuyện cũ thêm đau lòng lắm người ơi! = đừng nhắc chuyện đó nữa, biết rồi đừng kể nữa – trích lời trong bài hát Ngày đó xa rồi
172. Nhậu = một cách gọi khi uống rượu, bia
173. Nhiều chiện = nhiều chuyện
174. Nhìn khó ưa quá (nha)= đôi khi là chê nhưng trong nhiều tình huống lại là khen đẹp nếu thêm chữ NHA phía sau
175. Nhóc, đầy nhóc : nhiều
176. Nhột = buồn
177. Nhựt = Nhật
178. Nón An toàn = Mũ Bảo hiểm
179. Ổng, Bả, Cổ, Chả = Ông, Bà, Cô, Cha ấy = ông đó ổng nói (ông ấy nói)
180. Phi cơ, máy bay = tàu bay
181. Quá cỡ thợ mộc…= làm quá,
182. Qua đây nói nghe nè! = kêu ai đó lại gần mình
183. Qua bên bển, vô trong trỏng, đi ra ngoải,
184. Quá xá = nhiều (dạo này kẹt chiện quá xá! )
185. Quá xá quà xa = quá nhiều
186. Quê một cục
187. Quê xệ
188. Rành = thành thạo, thông thạo, biết (tui hổng rành đường 189; này nhen, tui hổng rành (biết) nhen)
190. Rạp = nhà hát(rạp hát), dựng một cái mái che ngoài đường lộ hay trong sân nhà để cho khách ngồi cho mát (dựng rạp làm đám cưới)
191. Rân trời = um sùm
192. Rốp rẽng (miền Tây) = làm nhanh chóng
193. Rốt ráo (miền Tây) = làm nhanh chóng và có hiệu quả
194. Ruột xe = xăm
195. Sai bét bèng beng = rất sai, sai quá trời sai!
196. Sai đứt đuôi con nòng nọc = như Sai bét bèng beng
197. Sạp = quầy hàng
198. Sến = cải lương
200. Sến hồi xưa là người làm giúp việc trong nhà. Mary sến cũng có nghỉa là lèn xèn như ng chị hai đầy tớ trong nhà.
201. Sên xe = xích
202. Sếp phơ = Tài xế
203. Sườn xe = khung xe
204. Tà tà, tàn tàn, cà rịch cà tang = từ từ
205. Tàn mạt = nghèo rớt mùng tơi
206. Tàng tàng = bình dân
207. Tào lao, tào lao mía lao, tào lao chi địa, tào lao chi thiên,… 208. chuyện tầm xàm bá láp = vớ vẫn
209. Tàu hủ = đậu phụ
210. Tầm xàm bá láp
211. Tầy quầy, tùm lum tà la = bừa bãi
212. Té (gốc từ miền Trung)= Ngã
213. Tèn ten tén ten = chọc ai khi làm cái gì đó bị hư
214. Tía, Ba = Cha
215. Tiền lính tính liền, tiền làng tàn liền …!
216. Tòn teng = đong đưa, đu đưa
217. Tổ cha, thằng chết bầm
218. Tới = đến (người miền Nam và SG ít khi dùng chữ đến mà dùng chữ tới khi nói chuyện, đến thường chỉ dùng trong văn bản)
219. Tới chỉ = cuối
220. Tới đâu hay tới đó = chuyện đến rồi mới tính
221. Tui ưa dzụ (vụ) này rồi à nhen = tui thích việc này rồi ( trong đó tui = tôi )
222. Tui, qua = tôi
223. Tụm năm tụm ba = nhiều người họp lại bàn chuyện hay chơi trò gì đó
224. Tức cành hông = tức dữ lắm
225. Tháng mười mưa thúi đất
226. Thắng = phanh
227. Thằng cha mày, ông nội cha mày = một cách nói yêu với người dưới tùy theo cách lên xuống và kéo dài âm, có thể ra nghĩa khác cũng có thể là một câu thóa mạ
228. Thấy ghét, nhìn ghét ghê = có thể là một câu khen tặng tùy ngữ cảnh và âm điệu của người nói
230. Thấy gớm = thấy ghê, tởm (cách nói giọng miền Nam hơi kéo dài chữ thấy và luyến ở chữ Thấy, “Thấy mà gớm” âm mà bị câm)
231. Thèo lẽo = mách lẻo ( Con nhỏ đó chuyên thèo lẽo chuyện của mầy cho Cô nghe đó! )
232. Thềm ba, hàng ba
233. Thí = cho không, miễn phí, bỏ ( thôi thí cho nó đi!)
234. Thí dụ = ví dụ
235. Thiệt hôn? = thật không?
236. Thọc cù lét, chọc cù lét = ??? làm cho ai đó bị nhột
237. Thôi đi má, thôi đi mẹ! = bảo ai đừng làm điều gì đó
238. Thôi hén!
239. Thơm = dứa, khóm
230. Thúi = hôi thối
231. Thưa rĩnh thưa rãng = lưa thưa lác đác
232. Trà = Chè
233. Trăm phần trăm = cạn chén- (có thể gốc từ bài hát Một trăm em ơi – uống bia cạn ly là 100%)
234. Trển = trên ấy (lên trên Saigon mua đi , ở trển có bán đồ nhiều lắm)
235. Trực thăng = máy bay lên thẳng
236. Um xùm
237. Ứa gan
238. Ứa gan = chướng mắt
239. Vè xe = chắn bùn xe
240. Vỏ xe = lốp
241. Xả láng, sáng về sớm,
242. Xà lỏn, quần cụt = quần đùi
243. Xài = dùng, sử dụng
244. Xảnh xẹ, Xí xọn = xảnh xẹ = làm điệu
245. Xe cam nhông = xe tải
246. Xe hơi = Ô tô con
247. Xe nhà binh = xe quân đội
248. Xe đò = xe chở khách, tương tự như xe buýt nhưng tuyến xe chạy xa hơn ngoài phạm vi nội đô (Xe đò lục tỉnh)
249. Xe Honda = xe gắn máy ( có một thời gian người miền Nam quen gọi đi xe Honda tức là đi xe gắn máy – Ê! mầy tính đi xe honda hay đi xe đạp dậy?)
250. Xẹp lép = lép xẹp, trống rổng ( Bụng xẹp lép – đói bụng chưa có ăn gì hết)
251. Xẹt qua = ghé ngang qua nơi nào một chút (tao xẹt qua nhà thằng Tám cái đã nghen – có thể gốc từ sét đánh chớp xẹt xẹt nhanh)
252. Xẹt ra – Xẹt vô = đi ra đi vào rất nhanh
253. Xí = hổng dám đâu/nguýt dài (cảm thán khi bị chọc ghẹo)
254. Xí xa xí xầm, xì xà xì xầm, xì xầm= nói to nhỏ
255. Xía = chen vô (Xí! Cứ xía dô chiện tui hoài nghen! )
256. Xiên lá cành xiên qua cành lá = câu châm chọc mang ý nghĩa ai đó đang xỏ xiên mình ???? (gốc từ bài hát Tình anh lính chiến- Xuyên lá cành trăng lên lều vải)
257. Xiết = nổi ( chịu hết xiết = chịu hổng nổi = không chịu được)
258. Xỏ lá ba que = giống như chém dè (vè), tuy nhiên có ý khác là cảnh báo đừng có xen vào chuyện của ai đó trong câu: “đừng có xỏ lá ba que nhe mậy”
259. Xỏ xiên = đâm thọt, đâm bị thóc chọc bị gạo,… (ăn nói xỏ xiên)
260. Xưa rồi diễm = chuyện ai cũng biết rồi (gốc từ tựa bài hát Diễm xưa )
Người đăng: d.khanh42@gmail.com vào lúc 11:19 Không có nhận xét nào:
Gửi email bài đăng nàyBlogThis!Chia sẻ lên XChia sẻ lên FacebookChia sẻ lên Pinterest

Nước Nhật trên đường Minh Trị Phục Hưng

Sau khi chế độ sứ quân chấm dứt vào năm 1868, các nhà lãnh đạo mới của nước Nhật chỉ là những chính khách non trẻ, chưa từng có kinh nghiệm gì về cách quản trị đất nước. Tuy nhiên, họ lại là những người có đầu óc thực tế, đã áp dụng thử từng phần các cách tổ chức chính trị của Tây Phương vào xã hội Nhật Bản.

Người Nhật không có các chia rẽ tôn giáo, một điều tai hại cho việc đoàn kết quốc gia tại các nước đang phát triển. Hơn nữa, người Nhật vốn có một tinh thần quốc gia rất cao, không một người dân nào lại có ý tưởng muốn nhờ vả một lực lượng nước ngoài để chống lại đồng bào của mình. Thế cho nên chưa đầy 50 năm, Nhật Bản đã trở thành một quốc gia hùng mạnh nhất Á Châu.

Đặc San Lâm Viên mời quý vị đọc bài biên khảo "Nước Nhật Trên Đường Minh Trị Phục Hưng" để thấy rằng lòng yêu nước và sự hiểu biết của giới lãnh đạo cùng với tinh thần dân tộc của dân chúng là hai yếu tố căn bản để phục hưng. Buồn thay, cả hai yếu tố này đều không có ở Việt Nam, thế cho nên Việt Nam bị đảng cộng sản đưa xuống thành quốc gia hèn kém trong khu vực Đông Nam Á. Người dân Việt Nam phải học theo người Nhật để hy vọng phục hưng đất nước trước hiểm họa xâm lăng của Trung Cộng cùng với sự hèn nhát, kém hiểu biết, và tham nhũng của giai cấp lãnh đạo csVN.

http://www.dslamvien.com/2019/07/nuoc-nhat-tren-duong-minh-tri-phuc-hung.html


Đặc San Lâm Viên
dslamvien.com
Người đăng: d.khanh42@gmail.com vào lúc 05:41 Không có nhận xét nào:
Gửi email bài đăng nàyBlogThis!Chia sẻ lên XChia sẻ lên FacebookChia sẻ lên Pinterest

(“BĂNG CHÁY” tên của một Nguyên Liêu Như Dầu Hỏa, mới khám phá). Đàn Chim Việt -

(“BĂNG CHÁY” tên của một Nguyên Liêu Như Dầu Hỏa, mới khám phá).

  Đàn Chim Việt 
 -


0

Hôm 21/7, trên Tuần báo Việt Nam có 1 bài báo ghi lại ý kiến rất đáng chú ý của ông Nguyễn Trường Giang, nguyên Đại sứ Việt Nam tại Brunei, nguyên Viện trưởng Viện Biển Đông, Học viện Ngoại giao. Bài này có tựa: “Mưu đồ chiến lược của TC trên biển Đông”.
Trong bài có đoạn viết: “Thứ nhất, lợi ích của Biển Đông là về vấn đề kinh tế, đầu bảng là tài nguyên dầu khí, sau đó là Băng Cháy. Khu vực Đông Nam Á có lượng Băng Cháy cực lớn. Đây là nguồn năng lượng của tương lai, có thể sử dụng trong nhiều thế kỷ, theo tính toán sơ khởi là khoảng 800 năm tới.
Việt Nam là một trong những quốc gia có lượng Băng Cháy tương đối lớn. Chúng ta có khoảng 2.400 tỷ mét khối Băng Cháy, là quốc gia có thứ hạng ở Châu Á về loại tài nguyên này. Đây là nguồn năng lượng tuyệt vời. Do đó, Trung Cộng nhìn vào nguồn Băng Cháy như một loại tài nguyên thay thế cho dầu khí đang dần trở nên cạn kiệt”.
Đây là một đánh giá rất đáng chú ý và chưa nhiều ngườì biết đến Băng Cháy là gì ?
Cách đây độ 15 năm. Từ một chuyến bay khảo sát của Nhật Bản trên Biển Đông, người ta chụp được những bức ảnh đầu tiên về một số vật thể lạ nổi lên trên mặt biển ở một vùng biển của Việt Nam. Khi về Nhật Bản, qua phân tích, các nhà Khoa học đánh giá đó là dấu hiệu của “Băng Cháy” hay còn gọi là Đá Cháy – một dạng nguyên liệu mới rất quý, có thể thay thế cho các dạng năng lượng khác: Than, dầu khí …trong hàng trăm năm tới.
Theo Tạp chí Khoa học và Tổ quốc: Băng Cháy là một thứ ở dạng rắn, hình thành từ khí thiên nhiên và nước, có tên Khoa học là Natural hydrate, hoặc Gas Hydrate. Khi hàm lượng methane vượt quá 75% thành phần của Gas Hydrate thì nó thường được gọi là Methane hydrate.
Chỉ cần nâng nhiệt độ hoặc giảm áp lực là Băng Cháy sẽ phân giải: 1m3 chất này khi phân giải cho ra 164 m3 khí methane và 0,8 m3 nước, đủ thấy năng lượng mà nó tiềm tàng lớn tới mức nào (gấp 2-5 lần năng lượng của khí thiên nhiên), lại sạch, không gây ô nhiễm môi trường. Nó được cho là tài nguyên lý tưởng để thay thế than, dầu khí…cho các nhà máy nhiệt điện về sau này.
Những nguồn tin đăng tải trên một số tờ báo của Nhật ở thời điểm đó gây lên một con sốt. Trung Cộng ngay sau đó đã điên cuồng đẩy mạnh bành trướng trên Biển Đông và Băng Cháy, như ông Nguyễn Trường Giang, cựu Viện trưởng Viện Biển Đông nói ở trong bài báo trên, một trong những ưu tiên hàng đầu của TC chính là khai thác Băng Cháy- nhằm thay thế cho năng lượng dầu khí, ngày càng có xu hướng cạn kiệt.
Việt Nam được cho là một quốc gia may mắn, có  một trữ lượng rất lớn Băng Cháy. Và cũng rủi thay, lại gần Tàu, để trở thành một quốc gia mà Tàu đã không còn giấu nổi tham vọng xâm lấn, tranh chấp tài nguyên- ở cả những vùng mà Việt Nam hoàn toàn có chủ quyền và chưa từng có tranh chấp. Băng Cháy chính là thứ đốt cháy lòng tham đến cuồng điên của CS Bắc Kinh trên vùng thềm lục điạ của Việt Nam, chứ không phải dầu khí.
Tại Việt Nam, từ năm 2007, Bộ Tài nguyên – Môi trường đã tổ chức Hội nghị Khoa học về Băng Cháy. Chính phủ cũng đã ban hành nhiều quyết định, chương trình nghiên cứu, đánh giá tài nguyên Băng Cháy.
Ngày 3-6-2010, Thủ tướng Chính phủ CS đã ban hành Quyết định 796 phê duyệt “Chương trình nghiên cứu, điều tra cơ bản về tiềm năng khí hydrate ở các vùng biển và thềm lục địa Việt Nam”. Theo đó, sau giai đoạn nghiên cứu (2007- 2015) kết thúc giai đoạn tiếp cận, nghiên cứu công nghệ, đến giai đoạn 2015-2020 bắt đầu đánh giá, thăm dò Băng Cháy trên những vùng biển và thềm lục địa có triển vọng.
Còn từ năm 2015 đến nay, các cơ quan đã làm gì để thăm dò, tiến tới khai thác nguồn tài nguyên quý này chưa thì …  chưa biết!  
Nguồn: Facebook Mạnh Quân.  ./.
Người đăng: d.khanh42@gmail.com vào lúc 02:05 Không có nhận xét nào:
Gửi email bài đăng nàyBlogThis!Chia sẻ lên XChia sẻ lên FacebookChia sẻ lên Pinterest

Coi chừng Ngộ nhận Nguy hiểm Inbox x Nhon Nguyen

Coi chừng Ngộ nhận Nguy hiểm

Trong bài viết “ Tổ Quốc Việt Nam nào? “, tác giả Nguyễn Đức Chung nhận xét về bài viết “ Biển Đông: Hòa Đồng Người Việt “ của Vi Anh như sau:

“ Trích:“ Đến nay đã 44 năm rồi, mà trong kỷ niệm ngày Quân Lực VNCH tử chiến với TC, dân chúng ở Đà nẵng công khai chống Đảng Nhà Nước CSVN ở Đà Nẵng tổ chức triển làm Hoàng sa mà không trình bày trận hải chiến của Hải Quân VNCH tử chiến với Quân Tàu năm 1974.

Còn báo chí của người Việt trên trang mạng, và trên phát thanh, phát hình, báo giấy, cũng như công luận của người Việt Quốc Gia vẫn coi Hải Quân của VNCS chống quân Tàu ở Hoàng sa năm 1988, tử thương 74, là những ngườidũng cảm, chết cho Tổ Quốc VN đáng tôn kính.”
(hết trích)

Trong hai đoạn chữ nghiêng trên, chúng tôi tô màu xanh lợt đoạn trên và đoạn dưới màu đỏ.
2. Còn đoạn kế, chúng tôi tô màu đỏ. Đọc xong đoạn này, chúng tôi đọc lại vài lần nữa cho chắc ăn là mình không đọc nhầm, hiểu sai ý tác giả!

Trước hết, chúng tôi nhận thấy tác giả viết nhầm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Hoàng Sa, là quần đảo phía trên, cách Đà Nẵng khoảng 200 hải lý. Nơi mà Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa đã tử chiến chống Tàu cộng xâm lăng vào 19/1/1974.

Còn hải quân Việt cộng (VNCS) được lệnh phải đứng làm bia cho Hải quân Tàu bắn gục tại Gạc Ma, thuộc quần đảo Trường Sa. Và những thước phim ấy Tàu cộng còn giữ sau khi chúng tung lên mạng lưới toàn cầu để “răn đe” bọn lãnh đạo đảng CSVN.

Cho nên, sự thật như trên, chỉ có những kẻ bưng tai bịt mắt, hoặc vô tình làm tay sai cho giặc cộng mới cho đó là hành động dũng cảm,“chết cho Tổ quốc Việt Nam đáng tôn kính”!

Chúng tôi tin tưởng mãnh liệt rằng, qua phương tiện truyền thông chân chính về sự kiện Tàu cộng bắn chết các binh lính Việt cộng năm 1988 tại Gạc Ma, công luận của “Người Việt Quốc Gia” chỉ có thương cảm và tiếc cho những nạn nhân đã chết một cách oan uổng dưới guồng máy cai trị phi nhân của đảng CSVN mà thôi.

…...

Để làm sáng tỏ nhận định của tác giả Nguyễn Đức Chung về vấn đề phân biệt:
    - Hải chiến lừng danh Hoàng Sa: 74 anh hùng, tử sĩ VNCH Vị Quốc Vong Thân
  • - Tàu cọng chiếm Gạc ma, Trường Sa: bộ đội cụ hồ làm bia đở đạn theo lịnh của bọn trùm Ba Đình để “ cầu hòa “ với chệt cọng.

Tôi gởi lại đây trích đoạn sưu khảo về hải chiến Hoàng Sa – Trường Sa:

TÀU CỌNG ĐÁNH CHIẾM HOÀNG SA
Bối cảnh
Sau khi Pháp rút khỏi Ðông Dương, Việt Nam Cộng Hòa đã đảm nhiệm chủ quyền trên quần đảo này cho đến khi cuộc hải chiến xảy ra. Quần đảo Hoàng Sa gồm hai nhóm đảo, được gọi là nhóm Nguyệt Thềm (Crescent group) và nhóm Bắc đảo hay An Vĩnh/Tuyên Ðức (Amphitrite group).
Dưới thời Việt Nam Cộng Hòa đã có đài khí tượng do Pháp xây, trực thuộc ty khí tượng Ðà Nẵng và được bảo vệ bởi một tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến. Năm 1956, hải quân Trung Quốc chiếm đóng đảo Phú Lâm (Woody Island) thuộc nhóm Bắc đảo. Năm 1958, Trung Quốc cho công bố bản tuyên ngôn lãnh hải 4 điểm, trong đó có tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc bao gồm các đảo Ðài Loan, Ðông-sa/Tây-sa (tức Hoàng Sa của Việt Nam) và Nam-sa (tức Trường Sa của Việt Nam), đảo Macclesfield, quần đảo Bành Hồ (Pescadores).
Vào giai đoạn này, Trung Quốc vẫn là đồng minh của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tiến hành cuộc chiến tranh chống lại Việt Nam Cộng Hòa và Hoa Kỳ.
Ngày 22 Tháng Chín năm 1958, báo Nhân Dân đăng công hàm của Thủ Tướng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa Phạm Văn Ðồng gửi thứ trưởng Bộ Ngoại Giao Trung Quốc, ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 Tháng Chín năm 1958 của chính phủ Trung Quốc quyết định về hải phận.
Năm 1961, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa ban hành sắc lệnh khẳng định chủ quyền Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam của Việt Nam Cộng Hòa.
Trong thời gian 1964-1971, hải quân Trung Quốc và hải quân Việt Nam Cộng Hòa chạm súng liên tục trên hải phận Hoàng Sa, nhưng không đưa đến thương vong. Trong thời điểm đó, Việt Nam Cộng Hòa cũng thiết lập một sân bay nhỏ tại đảo Hoàng Sa.
Năm 1973, với Hiệp Ðịnh Paris, Hoa Kỳ và Ðệ Thất Hạm Ðội sau khi rút quân và thiết bị ra khỏi quần đảo Hoàng Sa đã xem việc bảo vệ quần đảo này là việc riêng của Việt Nam Cộng Hòa.
Năm 1974 khi một phái đoàn của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa thăm dò một số đảo Hoàng Sa trong việc chuẩn bị thiết lập phi trường có khả năng chuyên chở vận tải cơ hạng nặng C-7 Caribou thì khám phá ra sự hiện diện của hải quân Trung Quốc, và giao tranh xảy ra sau đó.
Phía Việt Nam có tuần dương hạm Trần Bình Trọng (HQ-5), tuần dương hạm Lý Thường Kiệt (HQ-16), khu trục hạm Trần Khánh Dư (HQ-4), hộ tống hạm Nhật Tảo (HQ-10), một đại đội hải kích thuộc hải quân Việt Nam Cộng Hòa, một số biệt hải (biệt kích hải quân) và một trung đội địa phương quân đang trú phòng tại đảo Hoàng Sa.
Phía Trung Quốc có Liệp Tiềm Ðĩnh Số 274, Liệp Tiềm Ðĩnh Số 271, Tảo Lôi Hạm Số 389, Tảo Lôi Hạm Số 391, Liệp Tiềm Ðĩnh Số 282, Liệp Tiềm Ðĩnh Số 281 và hai chiến hạm số 402 và số 407 chở quân (không rõ loại), Tiểu Ðoàn 4 và Tiểu Ðoàn 5 thuộc Trung Ðoàn 10 Hải Quân Lục Chiến, và hai đội trinh sát.
Ngày 16 Tháng Giêng, 1974, tuần dương hạm Lý Thường Kiệt sau khi đưa một phái đoàn của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa thăm dò một số đảo Hoàng Sa phát hiện hai chiến hạm số 402 và số 407 của hải quân Trung Quốc gần Cam Tuyền, và phát hiện quân Trung Quốc chiếm đóng hoặc cắm cờ Trung Quốc tại các đảo Quang Hòa, Duy Mộng, Vĩnh Lạc.
Sau khi cấp báo về bộ tư lệnh hải quân vùng 1 duyên hải tại Ðà Nẵng, HQ-16 dùng quang hiệu yêu cầu các chiến hạm Trung Quốc rời lãnh hải Việt Nam. Các chiến hạm Trung Quốc không rời vùng, và cũng dùng quang hiệu yêu cầu phía Việt Nam Cộng Hòa rời lãnh hải Trung Quốc.
Ngày 17 Tháng Giêng, 1974, khu trục hạm Trần Khánh Dư (HQ-4) đến Hoàng Sa đổ bộ một toán biệt hải và một đội hải kích xuống Cam Tuyền để nhổ cờ Trung Quốc. Sau đó các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa rút trở lên tàu. Cùng trong ngày Liệp Tiềm Ðĩnh Số 274 và Liệp Tiềm Ðĩnh Số 271 của Trung Quốc xuất hiện.
Ngày 18 Tháng Giêng, 1974, Ðề Ðốc Lâm Ngươn Tánh, tư lệnh phó hải quân Việt Nam Cộng Hòa bay ra bộ tư lệnh hải quân vùng 1 duyên hải tại Ðà Nẵng để trực tiếp chỉ huy trận đánh. Ông ban hành lệnh hành quân Hoàng Sa 1 nhằm chiếm lại các đảo Cam Tuyền, Quang Hòa, Duy Mộng, Vĩnh Lạc.
Lực lượng hành quân Hoàng Sa 1 được tăng cường thêm tuần dương hạm Trần Bình Trọng (HQ-5) làm soái hạm cho cuộc hành quân, và hộ tống hạm Nhật Tảo (HQ-10). Do hải hành lâu ngày chưa kịp tu bổ, HQ-10 tham chiến với một máy bất khiển dụng, chỉ còn một máy hoạt động.
Ngày 19 Tháng Giêng, 1974, biệt hải và hải kích Việt Nam Cộng Hòa từ HQ-5 đổ quân lên mặt Nam đảo Quang Hòa và hải quân Trung Quốc đổ quân xuống mặt Bắc đảo. Hai bên giao tranh và phía Việt Nam Cộng Hòa có 3 chết và 2 bị thương. Do quân Trung Quốc quá đông, quân Việt Nam Cộng Hòa rút trở lên HQ-5.
Ngay sau đó chiến hạm hai bên triển khai đội hình gần đảo Quang Hòa và chiến hạm Việt Nam Cộng Hòa khai hỏa trước. Hai bên chạm súng từ 30 đến 45 phút, cùng thời điểm đó bộ tư lệnh hải quân Việt Nam Cộng Hòa nhận được thông báo của văn phòng tùy viên quân sự Hoa Kỳ (DAO) tại Sài Gòn, cho biết radar đệ thất hạm đội ghi nhận một số phóng lôi hạm (guided missile frigate) và chiến đấu cơ MIG từ Hải Nam đang tiến về phía Hoàng Sa.
Bộ tư lệnh hải quân Việt Nam Cộng Hòa sau đó yêu cầu đệ thất hạm đội trợ giúp, nhưng không thành công. (**)
Hải chiến Hoàng Sa lừng danh Quân sử Việt
Hải quân Thiếu tá Ngụy Văn Thà vị quốc vong thân
TÀU CỌNG ĐÁNH CHIẾM TRƯỜNG SA
Sự kiện Trường Sa không phải là “ hải chiến “
Tháng 9 và tháng 10 năm 1978, Thủ tướng Phạm Văn Đồng lần lượt đi thăm hai nước Philipines và Malaysia, ký thỏa thuận với Tổng thống và Thủ tướng hai nước để giải quyết các tranh chấp trên biển Đông bằng biện pháp hòa bình.
Giai đoạn này quan hệ giữa hai nước ngày càng căng thẳng. Trung Quốc từ chỗ thừa nhận Hoàng Sa là “vấn đề tranh chấp” sang hẳn luận điểm “Hoàng Sa là của Trung Quốc, không cần tranh cãi”.
Trung cộng chọn thời điểm
Nhiều tài liệu, bài báo gọi sự kiện Trung Quốc dùng tàu chiến, pháo hạm quân sự tấn công ngày 14/3/1988 là “cuộc hải chiến Trường Sa”. Tuy nhiên, chuẩn đề đốc Lê Kế Lâm và một số học giả quốc tế nghiên cứu về biển Đông cho rằng, gọi là “hải chiến” hoàn toàn không chính xác. Bởi khi đó, lực lượng của Việt Nam trên các đảo Cô Lin, Len Đao và Gạc Ma là công binh, không có vũ khí. Và các tàu của Việt Nam làm nhiệm vụ trong khu vực là tàu vận tải, không có vũ khí. Trung Quốc đã sử dụng vũ khí từ súng và pháo trên các tàu chiến bắn vào bộ đội công binh và tàu vận tải của Việt Nam.
Theo tài liệu giải mật của cơ quan tình báo trung ương Hoa Kỳ (CIA), Trung cộng đã chọn thời điểm dư luận thế giới đang tập trung vào giải pháp chính trị ở Campuchia. Liên Xô, đồng minh quan trọng của Việt Nam đang sa lầy ở Afghanistan, đang nối lại quan hệ với Trung cộng nên không muốn dính líu rắc rối gì với Trung cộng.
Trước khi ra tay hành động, một đoàn ngoại giao Trung Quốc đã đến các nước có liên quan đến biển Đông khẳng định “lập trường hòa bình” và tuyên bố Trung cộng chỉ “tranh chấp” đảo với Việt Nam, Trung Quốc không hề có “tranh chấp” nào khác với các nước khác!
Đầu năm 1988, lần đầu tiên hải quân Trung Quốc tới một số đảo trên quần đảo Trường Sa. Cụ thể, ngày 31/1/1988 chiếm bãi đá Chữ Thập; ngày 18/2/1988 chiếm bãi Châu Viên; ngày 26/2/1988 chiếm bãi Ga Ven; ngày 28/2 chiếm bãi Tư Nghĩa.
Trước tình hình Trung Quốc chiếm đóng hàng loạt đảo trên Trường Sa, Việt Nam đã khẳng định chủ quyền trên các đảo còn lại trên các đảo Gạc Ma, Cô Lin, Len Đao.
Trung Quốc, sau khi chiếm hàng loạt đảo, đầu tháng 3/1988 đã huy động lực lượng của hai hạm đội tiếp tục mở rộng lấn chiếm, tăng số tàu chiến từ 9 lên 12 tàu gồm 1 tàu khu trục tên lửa, 7 tàu hộ vệ tên lửa, 2 tàu hộ pháo, 2 tàu đổ bộ, 3 tàu vận tải hỗ trợ LSM, tàu kéo và 1 pông tông lớn.
Sáng ngày 14/3/1988, 4 tàu chiến Trung Quốc tiến đến bãi Gạc Ma. 6 giờ sáng Trung Quốc đổ bộ 40 quân lên đảo, xông lên giật cờ Việt Nam cắm trên đảo. Các chiến sĩ hải quân Việt Nam đang bảo vệ cờ Tổ quốc đã bị đâm bằng lưỡi lê và bắn chết gồm hạ sĩ Nguyễn Văn Lanh, thiếu úy Trần Văn Phương…
Lực lượng công binh, hải quân dù tay không vẫn cương quyết bảo vệ cờ. Trung Quốc đã huy động hai chiến hạm bắn thẳng vào lực lượng bảo vệ đảo và tàu vận tải 604 đang neo đậu. Thuyền trưởng Vũ Phi Trừ và một số chiến sĩ đã anh dũng hy sinh. Tàu 604 bị chìm.
Tại đảo Cô Lin (cách Gạc Ma 3,5 hải lý) và Len Đao, Trung Quốc tấn công quyết liệt ngay từ 6 giờ sáng ngày 14/3, bắn cháy tàu HQ 505 và sát hại nhiều chiến sĩ đang giữ đảo. Ở hướng Len Đao, 8 giờ 20 phút ngày 14/3, tàu chiến Trung Quốc bắn cháy tàu HQ 605 của Việt Nam.
Cuộc thảm sát kéo dài 28 phút đã gây thiệt hại nặng cho Việt Nam, 3 tàu bị bắn cháy và chìm, 3 chiến sĩ hy sinh, 11 chiến sĩ bị thương và 74 chiến sĩ mất tích. Sau này Trung Quốc trả lại 9 chiến sĩ bị bắt. Số còn lại được xem là đã hy sinh.
Việt Nam đã phản đối gay gắt. Tuy nhiên, Trung cộng vẫn tiếp tục mở rộng không ngừng lấn chiếm thêm một số đảo nữa sau đó và huy động nhiều tàu đánh cá từ Quảng Châu đến hoạt động khai thác tại ngư trường Trường Sa.
Ngày 28/ 4/1990, Bộ Ngoại Giao Việt Nam gửi công hàm cho đại sứ quán Trung cộng tại Hà Nội, phản đối việc Trung cộng đã cho quân lính xâm chiếm bãi Én Đất trên quần đảo Trường Sa. (***)
Trường Sa nào đâu phải là hải chiến
Chỉ là bộ đội cụ hồ đưa đầu cho chệt bắn
Theo lịnh tên việt gian chột mắt Lê Đức Anh

Nói tóm lại:

  • Hải quân Thiếu tá Ngụy Văn Thà và 73 tử sĩ VNCH vì nước quên mình, tử chiến bảo vệ Tổ Quốc Việt Nam.
  • Bộ đội cụ hồ là nạn nhân của bọn trùm vc Ba Đình, chết oan ức vì tham vọng của bọn trùm bán nước việt cọng chớ không phải Hy sinh vì Tổ Quốc.

Tới đây, vấn đề đã sáng tỏ. Nhưng khi đọc lại bài viết của Vi Anh, phát hiện một vấn đề nguy hiểm nên nhận thấy cần nêu lên ở đây.

Cái tựa đề “ Biển Đông: Hòa Đồng Người Việt “ bàng bạc mùi HÒA GIẢI.

Đọc xuống thấy đoạn viết:

“ Công luận của người Việt nói chung coi việc chống quân Tàu lấn chiếm biển đảo là một chánh nghĩa. Tiến sĩ Sử học Nguyễn Nhã một nhà nghiên cứu Biển Đông hiện sống và làm việc ở Saigon nhận định rằng, Chính phủ Việt Nam [CS] sẽ để mất thêm một cơ hội hòa giải dân tộc, nếu chậm vinh danh những anh hùng tử sĩ VNCH đã bỏ mình để bảo vệ Hoàng Sa trước quân xâm lược Trung Quốc. Cựu trung tướng quân đội Cộng Sản Việt Nam là ông Nguyễn Quốc Thước nói: “Tôn vinh tinh thần yêu nước của người lính Việt Nam Cộng Hòa chống ngoại xâm là cần thiết.”

Té ra việc đánh đồng tử sĩ VNCH với liệt sĩ việt cọng chỉ là cái cớ để kêu gọi hán ngụy “ thực thi hòa hợp – hòa giải.”

Và tác giả Vi Anh xuống xề theo kiểu “ kiến nghị – XIN CHO “:

Và khi TC ngang ngược tấn công VN, là TC tạo cơ hội, động lực cho người Việt cứu nước. Nếu Đảng Nhà Nước có một chút lòng tin nơi nhân dân, nơi lịch sử Việt, thì ngươi dân có cơ hội đoàn kết thành nội lực dân tộc chống quân Tàu.

Nếu như “ Đảng Nhà Nước “ mà có một chút lòng tin nơi nhân dân, nơi lịch sử Việt thì sự thể đâu có tang thương như ngày nay.

Tới giờ phút nầy, hán ngụy vc vẫn coi nhân dân là “ phản động “ khi biểu tình chống giặc tàu xâm lăng và bắt bỏ tù cả đám.

Theo truyền thống hùng cường Lạc Long, dù đảng việt cọng có tin hay không, khi sự thể lâm đầu, toàn dân Việt sẽ theo truyền thống Diên Hồng “ Quyết chiến và Hy sinh “ Đoàn kết chống giặc tàu xâm lăng, khỏi cần hán ngụy thực thi hòa hợp – hòa giải.

Nguyễn Nhơn
Hẻ đỏ lửa Bãi Tư Chính
30/7/2019

Đính kèm

Biển Đông: Hòa Đồng Người Việt
Vi Anh


Biển Đông là mẫu số chung Việt Nam, có thể  dùng để hoà đồng những phân số địa phương, tôn giáo, kinh tế chánh trị, trong ngoài nước, nói cách khác là hoà đồng người Việt.

Hoàng Sa, Trường Sa nói riêng và Biển Đông nói chung là giang sơn gấm vóc của đất nước ông bà Viêt Nam ngàn xưa để lại cho người Việt Nam.  Phần  máu xương, da thịt của Mẹ Việt Nam, Tổ Quốc VN đó do tiền nhân, tổ tiên người Việt từ  thành đô Thăng Long ở Miền Bắc mang gươm đi mở nước, theo con đường Nam Tiến cả mấy ngàn năm. Vào Miền Trung,  tới Đèo Ngang, “Hoành Sơn nhất đoái vạn đại dung thân” như lời tiên tri  của Cụ Trạng Trình viết thành sấm ký. Rồi xuôi Miền Nam, “ra đi gặp vịt cũng lùa, gặp giặc cũng đánh, gặp chùa cũng tu’ như câu ca dao, hát đối nghêu ngao giữa vùng sông rạch chằn chịt của vùng hạ lưu sông Cữu Long. Đó nơi theo theo văn minh Nhân Loại  nơi nào có dòng sông là con đường biết đi, nơi nào có đồng bằng sông lớn là có nền văn minh. Ai cập với sông Nil, Ba Tư với Euphrate, Tigris, Trung Hoa với Hoàng Hà, Ấn độ với Indus , Hằng Hà. Người Việt khai hoang, trồng lúa nước, cây ăn trái, cá trắng trong sông, cá đen ngoài đồng biến vùng Đồng Bằng Sông Cữu Long dưới sông đỉa như bánh canh, trên  bờ muổi như trấu vải, thành một nền văn minh Miệt Vườn của văn minh Việt Nam. Làm cho Việt Nam thành một giang sơn gấm vóc hình chữ S có biển Đông như lòng mẹ ôm ắp và nhiều đảo che chở và Trường sơn bao bọc như thành đồng. Thời đó Ông Tổ CS Karl Marx chưa đầu thai ở Đức, CS chưa nảy sanh ở Âu châu.

Nhưng nay trong thời kỳ CSVN cầm quyền, quần đảo Hoàng Sa và Trường sa của VN phân lớn đã bị Trung Cộng lấn chiếm, thôn tính, sáp nhập thành huyện Tam Sa của TC. Và Biển Đông của VN cũng đã bị TC ngang ngược lấn chiếm, với bản đồ hình lưởi bò của TC đơn phương liếm mất 80%.

Trong lịch sử 4.000 năm của quốc gia dân tộc Việt, người Việt là một dân tộc được thế giới sử đánh giá là dân tộc dũng cảm đứng lên chống quân Tàu 1.000. Và lịch sử VN coi những người đứng lên dánh đuổi quân Tàu xâm lăng, thống trị là anh hùng liệt nữ của VN.Toàn dân ngưỡng mộ, tôn vinh qua mọi thời đại.

Nhưng VN trong lịch sử cận đại hơn một thế kỷ trở lại đây, dân chúng  bị phân hoá, chia rẻ, đất nước bị chia đôi hai miền bởi hai ý thức hệ và hai chủ nghĩa Tự do và Cộng sản, và những siêu cường áp chế.

Trong cục diện chánh trị đầy mâu thuẫn, tương khắc đó giữa hai miền của quốc gia dân tộc VN, có một mẫu số chung có thể hoá đồng các phân số. Mẫu số chung đó là mẫu số Việt Nam. Người Việt ơ Bắc, ở Nam, ở Trung và ở hải ngoại, và đồng bao thượng ở Cao Nguyên, ở Thượng du VN theo đạo này hay đạo nọ, khuynh hướng tự do hay CS, lương tri, lương tâm chánh trực đều đau niềm đau đất mẹ bị quân Tàu banh da, xẻ thịt.

Ngay người Việt theo CS, dù ở thế kẹt, Đảng CSVN đồng chí với TC, cũng  làm bộ bằng mặt, chớ không bằng lòng. Không ít những cán bộ, đảng viên, bộ đội CS bất bình thái độ xìu xìu, ểnh ểnh  hiện tại của các lãnh tụ Đảng trước hành động xâm lăng của TC.

Đến nay đã 44 năm rồi, mà trong kỷ niệm ngày Quân Lực VNCH tử chiến với TC, dân chúng ở Đà nẵng công khai chống Đảng Nhà Nước CSVN ở Đà Nẵng tổ chức triển làm Hoàng sa mà không trình bày trận hải chiến của Hải Quân VNCH tử chiến với Quân Tàu năm 1974.

Còn báo chí của người Việt trên trang mạng, và trên phát thanh, phát hình, báo giấy, cũng như công luận của người Việt Quốc Gia  vẫn coi Hải Quân của VNCS chống quân Tàu ở Hoàng sa năm 1988, tử thương 74, là những người dũng cảm, chết cho Tổ Quốc VN đáng tôn kính.

Công luận của người Việt nói chung coi việc chống quân Tàu lấn chiếm biển đảo là một chánh nghĩa. Tiến sĩ Sử học Nguyễn Nhã một nhà nghiên cứu Biển Đông hiện sống và làm việc ở Saigon nhận định rằng, Chính phủ Việt Nam [CS] sẽ để mất thêm một cơ hội hòa giải dân tộc, nếu chậm vinh danh những anh hùng tử sĩ VNCH đã bỏ mình để bảo vệ Hoàng Sa trước quân xâm lược Trung Quốc. Cựu trung tướng quân đội Cộng Sản Việt Nam là ông Nguyễn Quốc Thước nói: “Tôn vinh tinh thần yêu nước của người lính Việt Nam Cộng Hòa chống ngoại xâm là cần thiết.”

Nếu đảng nhà nước CSVN công tâm chánh trực một chút, sẽ thấy người Việt tỵ nạn CS ở hải ngoại, đại đa số là người dân của VN Cộng Hoà đóng góp rất lớn trong công cuộc quốc tế vận chống quân Tàu xâm lược biển đảo VN. Nhứt là ở Mỹ, nơi có gần hai triệu người Việt định cư. Vấn đề TC xâm chiếm biển đảo của VN đã được đồng bào ở hải ngoại quốc tế vận đưa vào Quốc Hội, trái tim và khối óc của người dân Mỹ. Cụ thể ngày 14/1/2014, các nhà lập pháp Mỹ khẳng định và khuyến cáo TT Obama không thể để mặc cho Trung Quốc tha hồ sử dụng sức mạnh quân sự để áp đặt chủ quyền lãnh hải trên các vùng biển Đông Á. Các chuyên gia quốc tế cảnh báo rằng thái độ chèn ép của Bắc Kinh đang làm các nước láng giềng lo sợ và thách thức quyền lợi an ninh của Hoa Kỳ.

Tin Đài VOA, tiếng nói chánh thức của chánh quyền Mỹ loan tãi, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã chỉ trích quy định mới của Trung Quốc về kiểm soát hoạt động ngư nghiệp trên Biển Đông là hành vi “khiêu khích và nguy hiểm.” Bất chấp khối nợ quốc gia khổng lồ đang đè nặng, chính quyền Obama tăng cường sự hiện diện quân sự Mỹ trong khu vực.

Và gần đây TT Trump kế nhiệm chống Chủ Nghĩa Xã Hội hết mình, tăng cường thế lực quân sư Mỹ ở  Biển Đông. Với một quốc tế vận mạnh của người Việt hải ngoại hữu hiệu như vậy đối với siêu cường Mỹ đang chuyển trục quân sự sang Á châu Thái bình Duơng và coi tự do hàng hải là quyền lợi quốc gia của Mỹ, còn lâu TC mới dám dùng biện pháp quân sự với VN, nếu VNCS có hành động bảo vệ ngư dân VN, bảo vệ biển đảo- là hành động tư vệ chánh đáng.

Và khi TC ngang ngược tấn công VN, là TC tạo cơ hội, động lực cho người Việt cứu nước. Nếu Đảng Nhà Nước có một chút lòng tin nơi nhân dân, nơi lịch sử Việt, thì ngươi dân có cơ hội đoàn kết thành nội lực dân tộc chống quân Tàu.

Trong lịch sư VN có ba chân lý cũng là ba chánh nghĩa hằng cữu: ai chống quân Tàu là dân chúng ủng hộ; anh hùng dân tộc Việt đại đa số là người chống quân Tàu; các cuộc khởi nghĩa và chống quân Tàu thành công là do nội lực dân tộc là chánh, chớ ít khi nếu không muốn nói là nhờ ngoại bang giúp đỡ.Đó là mẫu số chung có thể hoá đồng nhiều phân số trong vấn đề VN./.(VA)
Người đăng: d.khanh42@gmail.com vào lúc 00:28 Không có nhận xét nào:
Gửi email bài đăng nàyBlogThis!Chia sẻ lên XChia sẻ lên FacebookChia sẻ lên Pinterest
Bài đăng mới hơn Bài đăng cũ hơn Trang chủ
Đăng ký: Nhận xét (Atom)

Giới thiệu về tôi

d.khanh42@gmail.com
Xem hồ sơ hoàn chỉnh của tôi

Lưu trữ Blog

  • ►  2020 (125)
    • ►  tháng 6 (4)
    • ►  tháng 5 (20)
    • ►  tháng 4 (17)
    • ►  tháng 3 (19)
    • ►  tháng 2 (43)
    • ►  tháng 1 (22)
  • ▼  2019 (963)
    • ►  tháng 12 (35)
    • ►  tháng 11 (55)
    • ►  tháng 10 (39)
    • ►  tháng 9 (49)
    • ►  tháng 8 (72)
    • ▼  tháng 7 (75)
      • TC sẽ đột quỵ như Liên xô ?
      • PHẬT TỬ KHÔNG NÊN QUÁ GẦN GŨI TĂNG NI ?
      • Đọc và Nghe đọc truỵên Cái Giọng Nói Của N...
      • Nước Nhật trên đường Minh Trị Phục Hưng
      • (“BĂNG CHÁY” tên của một Nguyên Liêu Như Dầu Hỏa, ...
      • Coi chừng Ngộ nhận Nguy hiểm Inbox x Nhon Nguyen
      • Hương Cảng: Máu nhuộm sân ga Nguyên Lãng – mùi của...
      • Tổng kho Long Bình được mở khóa hay chưa?
      • ***** Vietnam SOS !
      • Đểu! Lỗ Trí Thâm
      • Henry Kissinger: Cái loa đi mở đường của Siêu Quyề...
      • Trung Quốc sợ nhất ‘Phùng cửu tất loạn’: Cuộc chiế...
      • TẠI SAO TỔ TIÊN BÁCH VIỆT LẠI ĐỂ MẤT ĐỊA BÀN SINH ...
      • VNTB - Kẻ mang Trung Cộng ra hù dọa, chỉ trích tin...
      • “Quyền lịch sử” của Trung Cộng trên Biển Đông là q...
      • Con kiến mà kiện củ khoai - Nguyễn Nhơn
      • Mỹ-Trung chuẩn bị kịch bản xung đột võ trang tại Đ...
      • Vấn đề ‘thoát Trung,’ ‘thân Mỹ’ - Trương Nhân Tuấn
      • Vì sao phải cấp thiết bảo tồn ngôn ngữ của người V...
      • đến Quyết Tâm Bảo vệ Nòi Giống Dân Tộc VN
      • ĐEM TÂM TÌNH VIẾT LỊCH SỬ THƯ NGỎ KÍNH GỬI ANH CH...
      • Nỗi ân hận cuối đời của Đoàn Văn Toại - lãnh đạo p...
      • NƯỚC MỸ SẼ VỀ ĐÂU? THẾ GIỚI SẼ RA SAO? BẰNG PH...
      • Chuyên gì đang xẩy ra tại bãi Tư Chính giữa Trung ...
      • Người gốc Việt kỷ niệm 40 năm ngày quốc tế giải cứ...
      • Quả bom Tam Hiệp trên đầu dân Tàu… Phạm Thạch Hồng
      • ĐCS Trung Quốc Đã Có Dấu Hiệu Sụp Đổ? - Bảo Minh
      • ‘Ai dám tấn công đập Tam Hiệp?’: Chuyên gia giả th...
      • Nỗi buồn tiếng Việt...!!..
      • Bắc Kinh muốn gì qua vụ HD-8?
      • SỐNG VÀ CHẾT, RANH GIỚI MONG MANH*
      • ** CHUYỆN LẠ CÓ THẬT : -- TỶ PHÚ KHÔNG TIỀN !!!!!
      • ‘Ông Tập không còn nhiều thời gian
      • *****TÀU CỘNG TỰ HŨY DIỆT
      • Một bài phân tích độc đáo: Tại sao Putin lại chọc ...
      • CHINA COMMUNIST DEBT BUBBLES IN THE ECONOMY DECLINED
      • Người Việt Hải Ngoại Cần Phân Biệt Việt Ngữ Trong ...
      • Tân Quyền bộ trưởng quốc phòng của Mỹ chủ trương c...
      • Đài Loan với Tàu Cộng, ai hủy diệt ai nếu xảy ra x...
      • Hành động của Trung Cộng khiến các cường quốc kéo ...
      • Hồi nhỏ tôi đã tin rằng...
      • TRÒ CHUYỆN GIỮA MỘT CỰU MẬT VỤ HOA KỲ VỚI TÁC GIẢ ...
      • Bạn có biết “DMCS” là gì không?
      • MỘT CON CÁ BỊ CHẾT ĐUỐI
      • NƯỚC MỸ SỐ MỘT VÌ “TOILET”?. Tác giả: Phượng Vũ
      • TRÒ CHUYỆN GIỮA MỘT CỰU MẬT VỤ HOA KỲ VỚI TÁC GIẢ ...
      • Hoa kiều nổi giận: Xin các ông các bà đừng ra nước...
      • LY HƯƠNG - SỰ CHỌN LỰA NGHIỆT NGÃ ! ( Tác giả Ngu...
      • CHU VĨNH HẢI: NGƯỜI TRÍ THỨC
      • [OCGroupForum] Trump Búa Tạ Vào Kinh Tế VN + EVFTA...
      • Mỹ bán vũ khí cho Đài Loan : một công đôi ba việc ...
      • HONG KONG- DOAN KET THEO CHINH NGHIA.
      • Chúng tôi tham dự biểu tình Hồng Kông, ngày 1-7-2019.
      • Cộng Sản Việt Nam rơi mặt nạ Điệp Mỹ Linh
      • Đập Tam Hiệp của Trung Quốc bị nghi đang biến dạng...
      • Việt Nam Cộng Hòa, 44 Năm Sau.
      • Cùng là ‘chiến đấu’: Người Hồng Kông vì đại nghĩa,...
      • Rác thải chất như 'núi', bịt kín đường phố Hà Nội.
      • Việt Nam có cam kết với EU về cải thiện nhân quyền...
      • Tài liệu hoàn toàn bằng hình ảnh
      • Hồng Kông: Giờ đây không bên nào còn có thể quay l...
      • Chính sách ‘một quốc gia, hai chế độ’ là gì?
      • Đội tuyển nữ USA tạo nên hiện tượng hào hứng sôi n...
      • Thương chiến Mỹ - Trung : Việt Nam trong thế trên ...
      • Với chính sách ngu dân, Việt cộng đã tiêu hủy toàn...
      • Tự Điển Tiếng Việt Đổi Đời (Từ vần A-X) Đào Văn ...
      • Mời đọc tiếng Việt thời Việt cọng Yên Hà
      • Quan điểm của Hoàng Chí Phong (Joshua Wong) về cuộ...
      • Hãy khóc cho tiếng Việt! 03/07/2019 Mạnh Kim
      • Cancer-causing chemicalis found in soy sauce
      • Chiến tranh Môi Trường Nguyễn Vĩnh Long Hồ
      • Ý đồ của Trump khi mở 'đường sống' cho Huawei
      • GS Lâm Văn Bé: Người Tị Nạn và Việt Kiều
      • Hong Kong ra tối hậu thư với nhóm biểu tình chiếm...
      • NGU TOÀN DIỆN
    • ►  tháng 6 (123)
    • ►  tháng 5 (119)
    • ►  tháng 4 (94)
    • ►  tháng 3 (108)
    • ►  tháng 2 (83)
    • ►  tháng 1 (111)
  • ►  2018 (1053)
    • ►  tháng 12 (125)
    • ►  tháng 11 (158)
    • ►  tháng 10 (98)
    • ►  tháng 9 (92)
    • ►  tháng 8 (59)
    • ►  tháng 7 (22)
    • ►  tháng 6 (53)
    • ►  tháng 5 (102)
    • ►  tháng 4 (119)
    • ►  tháng 3 (114)
    • ►  tháng 2 (56)
    • ►  tháng 1 (55)
  • ►  2017 (404)
    • ►  tháng 12 (24)
    • ►  tháng 11 (24)
    • ►  tháng 10 (53)
    • ►  tháng 9 (28)
    • ►  tháng 8 (54)
    • ►  tháng 7 (51)
    • ►  tháng 6 (36)
    • ►  tháng 5 (37)
    • ►  tháng 4 (44)
    • ►  tháng 3 (13)
    • ►  tháng 2 (30)
    • ►  tháng 1 (10)
  • ►  2016 (333)
    • ►  tháng 12 (12)
    • ►  tháng 11 (8)
    • ►  tháng 10 (5)
    • ►  tháng 9 (7)
    • ►  tháng 8 (13)
    • ►  tháng 7 (63)
    • ►  tháng 6 (49)
    • ►  tháng 5 (101)
    • ►  tháng 4 (64)
    • ►  tháng 3 (11)
Chủ đề Đơn giản. Được tạo bởi Blogger.