Thứ Năm, 7 tháng 7, 2016

Lãnh Đạo VN ‘Không Dại Gì’ Chờ Mỹ Cứu GS Nguyên-Tienh61-Hưng

      Lãnh Đạo VN ‘Không Dại Gì’ Chờ Mỹ Cứu
      
        Đó là tựa đề bản tin BBC ngày 5/7/2015. Theo đó, Fred Brown, một quan chức ngoại giao kỳ cựu đã nghỉ hưu của Hoa Kỳ và đã từng phục vụ ở Việt Nam trong chức vụ Tổng Lãnh Sự, khi được BBC phỏng vấn ông đã nói như thế và lưu ý đến việc cần phải hiểu rõ quyền lợi của Mỹ là gì :
        BBC:
  • Ông có nghĩ rằng Hoa Kỳ sẽ cứu Việt Nam nếu không may Việt Nam bị Trung Quốc đe dọa hay thậm chí tấn công?
  • Việt Nam có thể trông đợi gì từ Washington trong tình huống xấu nhất khi họ cần một người bạn thì Hoa Kỳ có bao giờ là người bạn đó không?”
        Ông Fred Brown đã trả lời: Tôi nghĩ các nhà lãnh đạo Việt Nam không dại gì mà đề nghị Mỹ giúp Việt Nam trong những tình huống như thế. Tôi không nghĩ là có chuyện như thế xảy ra. Tôi nghĩ lãnh đạo Việt Nam cần hiểu rõ lợi ích quốc gia của Hoa Kỳ nằm ở đâu(BBC: Lãnh Đạo VN ‘Không Dại Gì’ Chờ Mỹ Cứu) [1]      
        Cũng vậy, Giáo Sư Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưngcũng đã nói tương tự như vậy về quyền lợi quốc gia. Giáo sư là cựu Tổng Trưởng Việt Nam Cộng Hòa(VNCH), người thân tín của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, người đã từng được giao nhiều nhiệm vụquan trọng xử lý quan hệ Việt Mỹ, người có cơ duyên tiếp cận nhiều hồ sơ mật trong bang giao Mỹ Việt từ rất sớm (trước khi được Mỹ giải mật)[2], là Giáo Sư đại học Mỹ, là cố vấn kinh tế của các tổ chức tài chánh uy tín như Ngân Hàng Thế giới và Quỹ Tiền Tệ Quốc TếNhư vậy, có thể nói Giáo Sư Nguyễn Tiến Hưng là người Việt Nam có trình độ và uy tín nhất để nói về quan hệ Mỹ Việt. Trong tác phẩm “Khi Đồng Minh Nhảy Vào”  của Giáo Sư, trang 659, ấn bản 2016, Giáo Sư đã kết luận :             
Ø  Nguyên tắc ngoại giao giữa các quốc gia là: “không bạn, không thù, nhưng vì quyền lợi”
Quyền lợi là chính yếu, bảo vệ tự do, xây dựng dân chủ, … chỉ là thứ yếu (Nghĩ : nếu không muốn nói tự do dân chủ chỉ là những chiêu bài che đậy những mưu đồ quyền lợi )
        Nói chuyện trong buổi ra mắt sách “Khi Đồng Minh Nhảy Vào” ở Houston Texas hôm 12 tháng 6 năm 2016, Giáo Sư Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưng cay đắng nói :
        . 25 tháng 3 (1954), Pháp cầu cứu Mỹ nhưngTổng Thống Eisenhower làm ngơ khiến cho Pháp thua trận nhục nhã ở Điện Biên Phủ khoảng hơn một tháng sau đó, ngày 7/5/1954. Một sự trùng hợp kỳ lạ, cũng ngày 25 tháng 3 (1975), chính Giáo Sư là người đã soạn thảo thư cầu cứu Mỹ, nhưng Tổng Thống Gerald Ford cũng làm ngơ khiến cho Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ hoàn toàn cũng vào khoảng hơn 1 tháng sau đó, ngày 30/4/1975.
        . Khi Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa, chẳng những Mỹ đã đứng ngoài làm ngơ không bảo vệ “đồng minh” Việt Nam mà lại còn ngăn chặn Không Quân “đồng minh” VNCH chiến đấu bảo vệ lãnh thổ ! [3]
        . Mỹ đã phản bội chúng ta.
        Tuy nhiên, GS cũng đã nói lên một thực tế quan trọng : Mặc dù Mỹ đã phản bội chúng ta, nhưng sau thế chiến thứ 2, các quốc gia như Đức, Nhật, Singapore, Trung Quốc, v.v…, không một quốc gia nào phát triển mà không nhờ đến Mỹ. Như vậy, Việt Nam chúng ta thì cũng phải nhờ đến Mỹ mà thôi. Nhưng,quan trọng là phải tìm hiểu cho đúng quyền lợi của Mỹ là gì.
        Tìm hiểu cho đúng quyền lợi của đối tác để xử lý thích hợp cho quyền lợi của mình là lẽ tự nhiên. Điều này cũng có nghĩa là Việt Nam chúng ta cũng phải áp dụng nguyên tắc ngoại giao “không bạn, không thù, nhưng vì quyền lợi”.
        Đặc biệt với Việt Nam, quyền lợi của Mỹ là gì, của Cộng Sản Tầu là gì ? Phải chăng là những tuyên bố công khai của những lãnh đạo chính trị, hay là những mưu tính khác ẩn sau những nước cờ tuyên bố công khai ? Dĩ nhiên, chẳng có ai lại nói cho thiên hạ biết lá bài tẩy mưu tính của mình. Vì thế cho nên, cần phải tìm ra mọi giải đáp của bài toán quyền lợi để có thể xử lý thích hợp.
        Trong bài toán quyền lợi, xin nhớ rằng, sức mạnh ngoại giao của bất cứ một quốc gia nào cũng đều do sức mạnh kinh tế, tài chánh và quân sự góp phần tạo ra. Đặc biệt với Mỹ, công nghiệp quân sự đều ở trong tay các tập đoàn tư nhân và đã sản xuất rất nhiều vũ khí. Nhiều vũ khí tồn đọng từ thời chiến tranh lạnh với Liên Sô vẫn chưa được tiêu thụ. Nếu không tiêu thụ được sản phẩm thì công nghiệp quân sự ắt sẽ bế tắc trong sản xuất và nghiên cứu phát triển; lúc đó e rằng kinh tế, tài chánh, quân sự và ngoại giao của Mỹ sẽ không thể tiếp tục ở thế mạnh. Như vậy, tiêu thụ vũ khí tồn đọng phải là một quyền lợi thiết yếu của Mỹ. Phải chăng, giúp cho gã khổng lồ Cộng Sản Tầu hùng mạnh lên để cho gã có thể hung hăng và hiếu chiến;khai thông cho gã 2 lối vào Biển Đông, một là Hoàng Sa vào tháng 1/1974, hai là eo biển Đài Loan vào tháng 5/1975* đều nằm trong mưu đồ quyền lợi thiết yếu tiêu thụ vũ khí ? Rất tiếc, đây là mảng suy luận rất thiếu vắng nơi các nhà hoạt động “chính chị” Việt Nam”!
        *(Như Giáo Sư Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưng đã dẫn chứng trong sách “Khi Đồng Minh Nhảy Vào” , từ trang 586 đến597)
        Một khi không hiểu rõ quyền lợi của Mỹ thì sẽ như mù, sẽ không thể biết thái độ thích hợp của mình !       
        Xin chớ tiếp tục ngây thơ vào sự cứu giúp vô tư không vì quyền lợi của ngoại bang. Xin hãy học kinh nghiệm bài học “liên minh và cứu giúp đồng minh VN của Mỹ” trong sự kiện Trung Cộng đánh chiếm Hoàng Sa :“Nhìn tóm lại, tôi thấy chúng ta sẽ thực sự hưởng lợi cùng với  Trung Cộng  trong lúc chúng ta vẫn có vẻ giúp Việt Nam thực hiện hành động hợp lý duy nhất là khiếu nại (Đoạn 10, công điện ngày 21/4/1974 của Đại Sứ Mỹ tại Saigon Graham Martin)[4]
        Với kinh nghiệm đau đớn về “liên minh” như vây, tại sao vẫn có nhiều người lại kêu gào phải liên minh với Mỹ để Mỹ chống Tầu cứu Việt Nam ? Vì họ ngây thơ hay thiểu năng suy luận?Tại sao lại ngây thơ rằng Mỹ sẽ là hiệp sĩ chỉ uống nước sông, không tính công, không tính lợi, sẵn sàng cứu giúp Việt Nam như chuyện cổ tích thiếu nhi, trong khi thực tế bang giao quốc tế đã và đang diễn ra theo nguyên tắc vì quyền lợi ?
       TN
        [1]. BBC Link : Lãnh Đạo VN ‘Không Dại Gì’ Chờ Mỹ Cứu
        [2]. Giáo Sư Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưng cho biết, tác phẩm “Khi Đồng Minh Nhảy Vào” được ông bắt đầu viết từ năm 1980. Nhưng năm 1979 trước đó, ông đãđược  Tiến Sĩ Warren Nutter, một thầy cũ ở đại học Virginia, một cựu Phụ Tá Bộ Trưởng Quốc Phòng thời Nixon, trước khi chết đã trao cho ông, như một kỷ vật, một tập tài liệu mật 7000 trang do Bộ Quốc Phòng soạn thảo tên là United States – Vietnam Relations, 1945-1967. Tài liệu mật “Quan Hệ Mỹ - Việt, 1945-1967” đã được Mỹ cho giải mật 32 năm sau đó, vào ngày 13 tháng 6 năm 2011 (“Khi Đồng Minh Nhảy Vào”, Lời Mở Đầu). Các tác phẩm do Giáo Sư Nguyễn Tiến Hưng viết đều dựa trên những tài liệu có thật. Rất nhiều những tài liệu này đã được đính kèm trong Phụ Lục các tác phẩm của Giáo Sư.
        [3]. Khi Tầu Cộng tấn công chiếm đoạt Hoàng Sa, sách “Khi Đồng Minh Nhảy Vào” của Giáo Sư Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưng, từ trang 588 đến 592, đã trưng ra bằng chứng cho thấy Mỹ chẳng những làm ngơ không bảo vệ “đồng minh” mà lại còn ngăn cản sức chiến đấu của phi cơ không lực VNCH. Những sĩ quan không quân tham gia chiến dịch đánh Tầu ở Hoàng Sa nhưng bị lệnh phải hủy bỏ giữa chừng là những nhân chứng còn sống gồm có : Đại Tá Nguyễn Quốc Hưng hiện ở Salem, Oregon, là Phụ Tá Tham Mưu Phó Hành Quân Bộ Tư Lệnh Không Quân; các Thiếu Tá Phạm Đình Anh (California); Đàm Tường Vũ (Arizona), Vũ Viết Quý (California), Hồ Văn Giầu (Las Vegas).
        [4]. Toàn văn điện tín mật của Đại sứ Martin theo tài liệu giải mật lưu trữ ở thư viện Tổng Thống Gerald R. Ford :
[Source: 417, SECRET, DECLASSIFIED, E.O. 12356, Sec. 3.4, MR 94-86, $26, 8/9/94. By NARA, Date 8/19/94. Photocopy from Gerald R. Ford Library]
 
“210925Z JANUARY 1974 VIA MARTIN CHANNEL
SAIGON 0587 IMMEDIATE
JANUARY 21, 1974
TO GENERAL BRENT SCOWCROFT
FROM: AMBASSADOR GRAHAM MARTIN
REFS: A) WH 40327; B) SAIGON 924
1. You may wish to bring these further observations to Henry’s attention before he decides on the nature of his approach, if any, to the PRC.
2. Reftel provides answers to questions posed. The Naval Log is interesting to review. Characteristic caution which was countered in the end by compulsion not just to sit there and take it but to do something. This compulsion reinforced by President Thieu’s physical presence in Danang and consequent intangible pressure from necessity not to appear passive faced with what was too easily summarized as clear aggression. Had he been here in Saigon, and had we known about what he was contemplating, we could have probably talked him into more reasonable course of action. For example, I HEARD THIS MORNING HE HAD ORDERED RVNAF TO BOMB CHINESE FORCES IN PARACELS. THAT HAS BEEN STOPPED.
3. Question is where we go from here. What. for example, do we advise GVN to do about their garrison at Namyit Island in the Spratleys. Withdraw it? Reinforce it? Or sit and wait? Naval Log shows despatch of ship to Namyit on 15th. According to preliminary seismological reports beginning to leak, there is probably enormous quantities of oil under the South China Sea in the vicinity of these otherwise worthless bits of real estate.
Therefore, the stakes are pretty high. We cannot, I think, become directly involved in the disputes over sovereignty between our old allies – the RVN, the ROC, and the Philippines. Or between them and the PRC with whom we would hope to build a more forthcoming relationship. However, it would not seem that we would necessarily jeopardize any of them by reiterating quietly and behind the scenes, our traditional position opposing use of force to settle territorial disputes, and such equally traditional positions as the use of the ICRC to facilitate immediate return of dead and wounded.
4. Indeed, if the PRC were to accede to the GVN request to return the dead and wounded under ICRC auspices, it would be a rather large stick to use to push the DRV into a more forthcoming attitude on the current “prisoner exchange” issue which they are stalling now in the TPJMC discussions. If, in addition, the PRC would use the rubric of “wounded” to return all the prisoners as a Tet gesture, it would be an even greater weapon to use on the DRV.
5. I have just been handed FBIS transcript of Peking NCNA Domestic Chinese 210112Z which says, inter alia “persons captured from the other side in this war of self-defense will be repatriated at an appropriate time.” In both Chinese and Vietnamese context there could be no more appropriate time than Tet. Of course, we do not know if the captured are still on Pattle Island or have been removed to Hainan or to the Mainland. It would, of course, be much easier to repatriate them from Pattle Island.
6. Question of Kosh further complicated by fact that UPI Saigon has story from Vietnamese sources that “American with meteorlogical station on Pattle Island now presumably captured by Chinese.”
This is all they have. They do not have his name or fact that he is DAO civilian employee. When queried we did not ask they kill or hold story but observed if it not carried for 24 hours, it might greatly facilitate release. UPI Bureau Saigon is so recommending to Bill Landry, Foreign Editor, UPI, in New York. What he will decide we do not know.
7. On the diplomatic front we have based on observations of USUN, advised GVN to simply file complaint with Security Council but not to press for hearing and certainly not for vote. Thieu wishes despatch letter to President Nixon requesting intervention and condemnation of PRC. We have strongly advised no such letter be sent, since there could be only negative reply, adding that I would myself recommend such a negative reply, We have recommended to Foreign Minister Bac that the GVN take its case to the International Court, and to play any report to SEATO very low key,
8. Out of all this may come a great deal of good. Certainly I shall be able to exert a greater influence in both restraining Thieu from any further ill-considered actions and also in being more forthcoming to meet any give, if any, in Le Duc Tho’s intransigence on prisoner exchange and the GVN proposal on the lowering the intensity of violence by refraining from use of mortars, rockets, and mines and other mass killers of innocent civilians. And, above all, on tightening up both his military command and control apparatus and give Khiem more power to coordinate the civilian ministries.
9. On balance, we should be looking for ways to use this incident, regrettable as it is, in ways which advance our overall objectives. Dispassionately and objectively I still believe low key approach to Chinese along lines I suggested might be useful. I do not suggest we insist they give the Paracels back to the GVN. They have them, and obviously they are not going to return them. Our recommendations that they accede to GVN request for return of dead and wounded and, further, that they may wish to use Tet to generously return all the prisoners are really, and I think would be perceived by the PRC to be, a tacit acceptance of their “fait accompli”. It just might, also, save the Spratleys and the possible oil under them for the GVN. It is just not credible to me that this incident is not one where the GVN stumbled into a PRC operation already well under way.

10. On balance, it seems to me that we would really gain with the PRC and at the same time appear to have done the only thing it makes sense for us to do for the GVN out of all that they have and will request. And, looking at it from this distance, there seems little, if any, danger that could possibly accrue to us from taking this initiative.
MARTIN”

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét