Thứ Bảy, 2 tháng 7, 2016

HS - TS : ĐẤU TRANH BẢO VỆ CHỦ QUYỀN QUỐC GIA VÀ SỰ TOÀN VẸN LÃNH THỔ LS Nguyễn Hữu Thống

LS NGUYEN HUU THONG :ĐẤU TRANH BẢO VỆ CHỦ QUYỀN QUỐC GIA VÀ SỰ TOÀN VẸN LÃNH THỔ

'Patrick Willay' pwillay@orange.fr [ChinhNghiaViet] <ChinhNghiaViet@yahoogroups.com>Wed, Jun 29, 2016 at 3:35 PM
Reply-To: ChinhNghiaViet@yahoogroups.com, Patrick Willay <pwillay@orange.fr>
To: BTGVQHVN-2@yahoogroups.com, ChinhNghiaViêt <ChinhNghiaViet@yahoogroups.com>
 

....Trong bản đồ Đại Thanh Đế Quốc do Chính Phủ ấn hành cũng không thấy vẽ các quần đảo Hoàng SaTrường Sa, và không thấy ghi các danh xưng Hán hóa Tây Sa, Nam Sa.
Trong bộ Hải Quốc Đồ Ký, cuốn Hải Lục của Vương Bỉnh Nam (1820-1842) viết: “Vạn Lý Trường Sa (Hoàng Sa) là giải cát dài ngoài biển được dùng làm phên dậu che chắn mặt ngoài bờ cõi nước An Nam”. Như vậy có sự nhìn nhận rằng quần đảo này là biên thùy hải phận của Việt Nam........
 
 

ĐẤU TRANH BẢO VỆ CHỦ QUYỀN QUỐC GIA VÀ SỰ TOÀN VẸN LÃNH THỔ
  
Luật Sư Nguyễn Hữu Thống
 

Theo Phụ Đính Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền ngày 9-12-1998, Liên Hiệp Quốc thừa nhận sự quan trọng của cuộc hợp tác quốc tế nhằm loại trừ hữu hiệu các vi phạm nhân quyền và những quyền tự do cơ bản của các dân tộc và các cá nhân trong đó phải kể đén những vi phạm tập thể, thô bạo và có hệ thống bắt nguồn từ sự kỳ thị chủng tộc, từ chế độ thực dân, đô hộ hay chiếm đóng, sự gây hấn hay đe dọa chủ quyền quốc gia và sự toàn vẹn lãnh thổ do sự phủ nhận quyền dân tộc tự quyết và quyền của các dân tộc và các cá nhân được hành sử đầy đủ chủ quyền của họ đối với tài nguyên và nguồn lợi thiên nhiên của đất nước.

 A.VỀ SỰ TÔN TRỌNG CÔNG ƯỚC QUỐC TẾ.

Mới đây, các học giả trong Viện Nghiên Cứu Chính Sách Hoa Kỳ đã phê phán chính sách bá quyền của Trung Quốc là Chính Sách Phát Xít Cổ Điển. (Bejiing Embraces Classical Fascism).

Thay vì tiếp thu chủ nghĩa đa nguyên, đa đảng theo sự mong đợi của mọi người, giới lãnh đạo Trung Quốc càng ngày càng trở nên giáo điều và bảo thủ. Cũng như tại Ý Đại Lợi, 50 năm sau Cách Mạng Phát Xít, Mussolini đã chết nhưng Nhà Nước Ý vẫn giữ chế độ độc tài và chủ yếu vẫn đàn áp chính trị. Để biện minh cho chế độ, họ thường xuyên nêu lên quan hệ về sự vinh quang cổ xưa của “Dân Tộc Ý Vĩ Đại”. Từ thế kỷ thứ nhất Đế Quốc La Mã đòi chủ quyền lãnh thổ toàn vùng Biển Địa Trung Hải chạy từ Tây  u (Tây Ban Nha) qua Tây Á (Thổ Nhĩ Kỳ). Họ gọi đó là biển lịch sử hay Biển Của Chúng Tôi (Mare Nostrum, Our Sea).

Ngày nay, phỏng theo Chủ Nghĩa Phát Xít Cổ Điển Ý, Bắc Kinh cũng đề xướng “Dân Tộc Hán Vĩ Đại” nhằm phục hồi Đế Quốc Đại Hán.

Chủ trương cố hữu của Bắc Kinh được quy định như sau: Những lãnh thổ trước kia đã được Trung Quốc chinh phục và khai hóa nay phải trả về cho (Trung Quốc) văn minh chứ không thể thuộc về phe (Đế Quốc) dã man. Đó cũng là nhận định của Tiến Sĩ Lo Chi-Kin từ Hồng Kông trong Luận Án Tiến Sĩ đệ trình Đại Học Kinh Tế Chính Trị Luân Đôn năm 1986. (Chi-Kin Lo, China’s Policy Towards Territorial Disputes, Routledge London, 1989).
Trong Chiến Tranh Biên Giới Ấn-Hoa năm 1962 Trung Quốc đòi chủ quyền vùng biên giới Ấn Độ rộng 90 ngàn cây số vuông thuộc tiểu bang Arunachal Pradesh phía Đông Bắc.

Giáo Sư C. P. Fitzerald tại Đại Học Oxford cũng quan niệm như Tiến Sĩ Lo Chi-Kin:
“It is the belief of the Chinese that territory once won for civilization must not be given back to barbarism. Therefore territory which was once Chinese must forever remain so, and, if lost, must be recovered at the first opportunity”. C. P. Fitzgerald, The Chinese View of Foreign Relations, 1963.
Chính Sách Bá Quyền được phổ biến năm 1954 trong cuốn “Lược Sử Tân Trung Quốc” có kèm theo bản đồ và lời tuyên bố của Mao Trạch Đông: “Tất cả các lãnh thổ và hải đảo thuộc khu vực ảnh hưởng của Trung Quốc đã từng bị phe các Đế Quốc Tây Phương và Nhật Bản chiếm đoạt từ giữa thế kỷ 19 đến sau Thế Chiến I, như  Ngoại Mông, Triều Tiên, “An Nam”, Mã Lai, Thái Lan, Miến Điện, Bhutan, Nepal, Hồng Kông, Macao, cùng những đảo Thái Bình Dương như  Đài Loan, Ryukyu, Sakhalin, phải được giao hoàn cho Trung Quốc”.
Hiện nay, tại vùng Biển Đông Nam Á, rập theo tham vọng của Đế Quốc La Mã hồi thế kỷ thứ nhất coi Địa Trung Hải là Biển Lịch Sử La Mã, Bắc Kinh cũng đưa ra thuyết Biển Lịch Sử hay Đường Lưỡi Bò Chín Đoạn và coi đó là mục tiêu chiến lược từ 1955, nhất là từ khi Trung Quốc ký Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển tại Montego Bay, Jamaica ngày 10-12-1982. Công Ứớc này đã được phê chuẩn để có hiệu lực chấp hành từ năm 1994.
Tuy nhiên thuyết Biển Lịch Sử ngày nay đã lỗi thời. Nó đi trái những điều khoản của Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển và đi trái Luật Tục Lệ Quốc Tế của Tòa Án Quốc Tế The Hague. 

Theo Công Pháp Quốc Tế

Chiếu  Điều 76 Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển các quốc gia duyên hải được hưởng quy chế Thềm Lục Địa 200 hải lý (370km) để thăm dò và khai thác dầu khí. Đây là chủ quyền chuyên biệt (sovereign exclusive right), không tùy thuộc vào điều kiện phải có sự chiếm hữu, khai phá hay tuyên bố minh thị (occupation, exploration or assertion of right). Mọi sự tự tiện chiếm cứ của ngoại bang dầu có võ trang hay không đều bất hợp pháp, vô giá trị và vô hiệu lực (các Điều 77 và 81).

Về mặt địa lý, tại quần đảo Hoàng Sa, đảo Tri Tôn chỉ cách Quảng Ngãi 135 hải lý, và đảo Hoàng Sa chỉ cách lục địa Việt Nam 160 hải lý. Vì vậy quần đảo Hoàng Sa nằm trong Thềm Lục Địa 200 hải lý của Việt Nam.

Về mặt địa chất, các chuyên gia quốc tế như Tiến Sĩ Khoa Học Armand Krempf, Giám Đốc Viện Hải Học Đông Dương, sau 2 năm nghiên cứu, đo đạc và vẽ bản đồ các hải đảo và đáy biển, đã lập phúc trình kết luận rằng: “Về mặt địa chất, các đảo Hoàng Sa là thành phần của Việt Nam”. (Geologiquement les Paracels font partie du Vietnam). Về địa hình đáy biển Hoàng Sa là một cao nguyên chìm dưới đáy biển nối tiếp lục địa Việt Nam.
Vì đáy biển Hoàng Sa là sự tiếp nối tự nhiên của lục địa Việt Nam từ đất liền kéo dài ra ngoài biển nên chiếu Điều 76 Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, Việt Nam có triển vọng được Ủy Ban Định Ranh Thềm Lục Địa Liên Hiệp Quốc cho mở rộng Thềm Lục Địa Pháp Lý 200 hải lý (370km) thành Thềm Lục Địa Địa Chất hay Thềm Lục Địa Mở Rộng có thể đến 350 hải lý (650km).

Trong khi đó từ Hoàng Sa về lục địa Trung Hoa có một rãnh biển sâu tới 2,300m. Như vậy về mặt địa chất và địa hình đáy biển, Hoàng Sa không phải là sự tiếp nối tự nhiên của lục địa Trung Hoa từ đất liền ra ngoài biển. Trong trường hợp này Trung Hoa không được hưởng quy chế Thềm Lục Địa Mở Rộng. (Extended Continental Shelf).

Tại Trường Sa cũng vậy, tại Bãi Thanh Long Tứ Chính, nơi khai thác dầu khí, độ sâu chỉ tới 400m, và tại đảo Trường Sa độ sâu chỉ tới 200m. Như vậy về mặt địa chất và địa hình đáy biển, cũng như Hoàng Sa, các đảo Trường Sa là sự tiếp nối tự nhiên của lục địa Việt Nam từ đất liền ra ngoài biển. Theo quan điểm của các Luật Sư Covington và Burling trong Bản Tường Trình ngày 19-6-1995 gửi Chính Phủ Việt Nam, quần đảo Trường Sa có triển vọng được hưởng quy chế Thềm Lục Địa Mở Rộng đến mức tối đa 350 hải lý.
Trong khi đó từ Trường Sa về bờ biển Quảng Đông có một rãnh biển sâu tới 4,550m.  Như vậy các đảo Trường Sa không phải là sự tiếp nối tự nhiên của lục địa Trung Hoa từ đất liền ra ngoài biển. Và Trung Quốc không được hưởng quy chế Thềm Lục Địa Mở Rộng 350 hải lý. Dầu sao, trong mọi trường hợp, khoảng cách  từ Hoa Lục tới đảo Trường Sa là 750 hải lý (quá xa tầm 350 hải lý Thềm Lục Địa Mở Rộng nếu có).

Hơn nữa, về mặt địa lý, Bãi Thanh Long Tứ Chính và đảo Trường Sa chỉ cách lục địa Việt Nam từ 150 đến 220 hải lý. Trong khi đó quần đảo Trường Sa cách lục địa Trung Hoa từ 550 đến 800 hải lý  nên không nằm trong thềm lục địa Trung Hoa.

Ngày 14-7-1995 nhân danh Chủ Tịch Hội Luật Gia Việt Nam tại California  người viết bài này đã gửi văn thư cho 7 vị nguyên thủ quốc gia trong Hiệp Hội Các Quốc Gia Đông Nam Á (ASEAN) yêu cầu các quốc gia duyên hải Biển Đông Nam Á đưa vụ tranh chấp ra trước Tòa Án Liên Hiệp Quốc về Luật Biển hay Tòa Án Quốc Tế The Hague để phân định chủ quyền các hải đảo và các vùng hải phận của các quốc gia duyên hải. Đồng thời đổi danh xưng Biển Nam Hoa thành Biển Đông Nam Á. Vì Biển Nam Hoa có thể được giải thích sai lầm là biển của nước Trung Hoa về phía nam.

Trong Bản Tường Trình nạp tại Ủy Ban Phân Định Thềm Lục Địa Liên Hiệp Quốc ngày 11- 5-2009, Chính Phủ Bắc Kinh cố tình đề cập đến hải phận trên bản đồ Đường Lưỡi Bò Chín Đoạn mà họ gọi là Biển Lịch Sử. Chứ không vẽ Thềm Lục Địa Mở Rộng theo các tiêu chuẩn luật định về khoa học và kỹ thuật như Quy Chế Liên Hiệp Quốc đòi hỏi. Do đó Ủy Ban Định Ranh Thềm Lục Địa đã bác bỏ không cứu xét đơn thỉnh nguyện năm 2009 của Bắc Kinh.

Lưỡi Rồng Trung Quốc

Lưỡi Rồng Trung Quốc (mà dân gian gọi là Lưỡi Bò) chiếm 80% hải phận Biển Đông Nam Á. Nó nằm sát bờ biển các quốc gia duyên hải, chỉ cách Quảng Ngãi 40 hải lý, và cách Phi Luật Tân và Mã Lai 25 hải lý. Như vậy nó tước đoạt  ít nhất 160 hải lý của Thềm Lục Địa Việt Nam, và 175 hải lý  của các Thềm Lục Địa Phi Luật Tân và Mã Lai. Đây hiển nhiên là sự vi phạm thô bạo Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển dành chủ quyền chuyên biệt cho các quốc gia duyên hải như Việt Nam, Phi Luật Tân, Mã Lai  được hưởng tối thiểu 200 hải lý Thềm Lục Địa Pháp Lý để thăm dò và khai thác dầu khí.
Theo Học Giả Mark J. Valencia tại Viện Hải Học Đông Tây Hawaii (East-West Institute) yêu sách của Trung Quốc về Biển Lịch Sử không được Luật Pháp và Tòa Án chấp nhận. Ngày nay càng ngày dư luận quốc tế càng phê phán và chế giễu Lưỡi Rồng Trung Quốc là khôi hài và lố bịch (China’s claim is being increasingly criticized and even ridiculed: China and the South China Sea Disputes, Mark J. Valencia, Oxford University Press. October 1995).

Mặc dầu vậy, từ 1955, để phục hồi Chủ Nghĩa Bá Quyền, Bắc Kinh lại nêu lên  thuyết Biển Lịch Sử để đòi chủ quyền lãnh thổ tại vùng hải phận và các hải đảo Hoàng Sa Trường Sa. Họ cho đó là một vấn đề “bất khả tranh nghị”.

Về điểm này chúng ta nhắn nhủ nhà cầm quyền Bắc Kinh rằng: Trong thế kỷ này và dưới vòm trời này, không có điều gì, việc gì, hay vấn đề gì là bất khả tranh nghị! Về mặt tinh thần, văn hóa, pháp lý và đạo lý, Trung Quốc không thể nói một đàng làm một nẻo. Họ phải tôn trọng danh dự  quốc gia và chữ ký của họ trong các Công Ước Quốc Tế. Họ phải chấp nhận công khai hóa vụ tranh chấp và phải đưa ra trước thanh thiên bạch nhật những tài liệu và quan điểm cho biết tại sao và căn cứ vào đâu mà đòi tước đoạt chủ quyền lãnh thổ của các quốc gia Đông Nam Á tại các thềm lục địa như đã quy định trong Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982 mà Trung Quốc đã ký kết tham gia với tư cách một trong Ngũ Cường hội viên thường trực Hội Đồng Bảo An? Nếu không đưa ra sự giải thích hợp lý và các cơ sở pháp lý thì Trung Quốc vẫn chỉ là kẻ sử dụng Luật Rừng Xanh Mạnh Được Yếu Thua. Để tước đoạt 4/5 Thềm Lục Địa Pháp Lý của Việt Nam, đồng thời tước đoạt 7/8 Thềm Lục Địa Pháp Lý của Phi Luật Tân và Mã Lai. 
 
Hơn nữa, chiếu các Điều 77 và 81 Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, chủ quyền của các quốc gia duyên hải tại Thềm Lục Địa có tính tuyệt đối và chuyên biệt. Bất cứ sự xâm phạm nào của ngoại bang dầu là xâm chiếm võ trang hay không võ trang cũng đều bất hợp pháp, vô giá trị và vô hiệu lực. Cũng như việc Nhật Bản đã chiếm cứ bất hợp pháp các hải đảo và hải phận tại Hoàng Sa và Trường Sa thời Thế Chiến II từ 1938 đến 1945.

Chắc hẳn Trung Quốc cũng hay biết rằng Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển 1982 là một văn kiện chính sử mà các quốc gia hội viên Liên Hiệp Quốc đã ký kết có nghĩa vụ phải tôn trọng và thực thi.

Ngoài Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển 1982, còn có rất nhiều tài liệu lịch sử rút ra từ chính sử Trung Quốc theo đó chủ quyền của Việt Nam tại các hải đảo Hoàng Sa Trường Sa đã được thừa nhận bởi các quốc gia trên thế giới kể cả Trung Quốc.
Tuyên Cáo Cairo 1943

Trong khi Thế Chiến II còn đang tiếp diễn, năm 1943, ba cường quốc đồng minh đại diện bởi Tổng Thống Hoa Kỳ Roosevelt, Thủ Tướng Anh Churchill và Tổng Thống Trung Hoa Dân Quốc Tưởng Giới Thạch đã hội nghị tại Cairo (Ai Cập), và đã ký Tuyên Cáo Cairo ngày 27-11-1943 trong đó có đoạn như sau:
“Đối tượng của các quốc gia đồng minh là tước bỏ quyền của Nhật Bản trên tất cả các lãnh thổ và hải đảo tại Thái Bình Dương mà Nhật đã cưỡng chiếm từ khi khởi sự Thế Chiến I. Tất cả các lãnh thổ và hải đảo mà Nhật Bản đã chiếm đoạt của nhân dân Trung Hoa như Mãn Châu, Đài Loan và Bành Hồ sẽ phải giao hoàn cho Trung Hoa Dân Quốc”. Điều đáng lưu ý là, tại Hội Nghị Cairo Tổng Thống Tưởng Giới Thạch không đòi Hoàng Sa và Trường Sa. Và như vậy đã khước từ chủ quyền tại hai quần đảo này. (U. N. Treaty Series, American Policy 1950-1955)

Theo công pháp quốc tế Tuyên Cáo Cairo 1943 là một hiệp ước quốc tế tạo nên những nghĩa vụ quốc tế áp dụng cho các quốc gia liên hệ. Nó có hiệu lực cưỡng hành đối với Trung Quốc, dầu là Trung Hoa Dân Quốc hay Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc là quốc gia kế thừa chủ quyền. Đặc biệt là, trong hiện vụ, ngày 4-12-1950, Chu  n Lai, lúc này là ngoại trưởng, cũng đã tuyên bố tán thành Bản Tuyên Cáo Cairo 1943 là văn kiện lịch sử quốc tế mà Hoa Kỳ, Anh Quốc và Trung Quốc đã ký kết để làm căn bản cho Hòa Ước với Nhật Bản (Hòa Ước San Francisco ngày 8-9-1951). (Chou En Lai’s Statement on the Peace Treaty with Japan. People’s China, 12-16-1950).

Hội Nghị Hòa Bình San Francisco 1951.

Năm 1951, 51 quốc gia đồng minh họp Hội Nghị để ký Hòa Ước Cựu Kim Sơn ngày 8-9-1951. Mục đích để chấm dứt tình trạng chiến tranh, phục hồi và tái thiết Nhật Bản nhằm xây dựng hòa bình thế giới trong tinh thần hòa giải, hợp tác và hữu nghị theo tôn chỉ của Hiến Chương Liên Hiệp Quốc.

Ngày 12-7-1951 Ban Tổ Chức Hội Nghị San Francisco phổ biến bản Dự Thảo Hòa Ước trong đó Điều 2 về Lãnh Thổ (Territory) đề cập đến những vấn đề chủ yếu như sau:
Nhật Bản khước từ chủ quyền tại đảo Đài Loan và quần đảo Bành Hồ [để giao hoàn cho Trung Quốc].

Nhật Bản khước từ chủ quyền tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa [để giao hoàn cho Việt Nam]. 

Đây là một quyết định hợp lý.

Ngày 5-9-1951, trong phiên Khoáng Đại thứ 5, Ngoại Trưởng Liên Sô Andrei Gromyko đệ trình Tu Chính Án yêu cầu Hội Nghị trao Hoàng Sa và Trường Sa (mà họ gọi là Tây Sa và Nam Sa) cho Trung Quốc. Tuy nhiên Tu Chính Án này đã bị Hội Nghị bác bỏ với 46 phiếu chống, 3 phiếu thuận và 1 phiếu trắng.

Ngày 7-9-1951, trong phiên Khoáng Đại thứ 7, Thủ Tướng kiêm Ngoại Trưởng Trần Văn Hữu, Trưởng Phái Đoàn Quốc Gia Việt Nam lên diễn đàn công bố chủ quyền của Việt Nam tại các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa và không gặp sự phản kháng nào của 50 quốc gia tham dự Hội Nghị (kể cả Liên Xô).

Với sự công bố chủ quyền của Việt Nam về Hoàng Sa Trường Sa trước 50 quốc gia hội viên Liên Hiệp Quốc tham dự Hội Nghị San Francisco 1951, chúng ta khẳng định rằng: Từ 1951 các Quần Đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã được các quốc gia trên thế giới thừa nhận thuộc chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam, chứ không thuộc chủ quyền của Trung Quốc.

Hiệp Định Geneva 1954

Tháng 7-1954, để giải quyết Chiến Tranh Đông Dương, Hội Nghị Geneva  được triệu tập với sự tham dự của 9 quốc gia gồm Ngũ  Cường Mỹ, Anh, Pháp, Liên Xô và Trung Quốc, cùng Ai Lao, Cao Miên và 2 nước Việt Nam là Quốc Gia Việt Nam (Miền Nam) và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Miền Bắc). Hiệp Định Geneva ngày 20-7-1954 một lần nữa, đã minh thị xác nhận chủ quyền của Việt Nam Cộng Hòa (lúc này là Quốc Gia Việt Nam) tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Thật vậy Điều 4 Hiệp Định Geneva 1954 quy định như sau:
“Giới tuyến giữa Miền Bắc và Miền Nam Việt Nam (Vĩ Tuyến 17) kéo dài ra ngoài hải phận theo một đường thẳng góc với đường ven biển.

“Lực lượng Liên Hiệp Pháp (gồm có Quốc Gia Việt Nam, Pháp và đồng minh) phải rút khỏi tất cả các hải đảo tại phía Bắc giới tuyến (Vĩ Tuyến 17).

“Quân đội Nhân Dân Việt Nam (Bắc Việt) phải rút khỏi tất cả các hải đảo phía Nam giới tuyến” (Vĩ Tuyến 17) nơi tọa lạc các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (từ Vĩ Tuyến 17 đến Vĩ Tuyến 7, từ Quảng Trị xuống Nam Cà Mau). .Do đó chiếu Hiệp Định Geneva 1954, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam Cộng Hòa. (Từ 1955 Quốc Gia Việt Nam thay đổi chính thể và lấy quốc hiệu là Việt Nam Cộng Hòa).
Vì Bắc Việt không có chủ quyền lãnh thổ từ Vĩ Tuyến 17 vào Nam, nên không có tư cách để chuyển nhượng Hoàng Sa Trường Sa cho Trung Quốc. Hậu quả là Công Hàm Phạm Văn Đồng gửi Chu  n Lai ngày 14-9-1958 không có giá trị và không có hiệu lực pháp lý.
Căn cứ vào những tài liệu lịch sử nói trên, Trung Quốc đã ý thức sự yếu kém của họ về cả ba mặt pháp lý, địa lý và lịch sử. Do đó họ không bao giờ dám công khai thảo luận về vấn đề tranh chấp chủ quyền các hải đảo và hải phận tại Biển Đông Hải. Họ thường tránh né và cho đó là một vấn đề bất khả tranh nghị. Lý do là vì họ không có tài liệu hay lý lẽ gì để đưa ra tranh nghị công khai dưới thanh thiên bạch nhật trong tinh thần chính đại quang minh. Tất cả lý lẽ và lập trường của Trung Quốc chỉ thu gọn trong câu: “Biển Nam Hoa là Biển Lịch Sử của Trung Quốc”. Theo các luật gia và chuyên viên hải học trên thế giới, thuyết Biển Lịch Sử của Đế Quốc Đại Hán đã lỗi thời và lạc hậu.

Kể từ 1982, vấn đề Biển Lịch Sử đã được giải quyết chung thẩm bởi Điều 8 Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển:

“Tòa Án Quốc Tế The Hague định nghĩa Biển Lịch Sử là Nội Hải, nghĩa là vùng biển tọa lạc trên đất liền về phía bên trong đường cơ sở (ranh giới) của Biển Lãnh Thổ. Theo Tòa Án Quốc Tế: “Biển Lịch Sử hay nội hải của một quốc gia nằm bên trong đất liền về phía bên trong đường cơ sở của biển lãnh thổ”. (The International Court of Justice has defined “historic waters” as “internal water” (Fisherys cases UK vs. Norway, 1951, I. C. J. 116, 130); “Waters on the landward side of the baseline of the territorial sea form part of the internal water of the State” (Art. 8 LOS Convention 1982).
Vì vậy Biển Nam Hoa chỉ được coi là ngoại hải, chạy từ bờ biển Trung Hoa đến bờ biển Nam Dương, và rộng tới 2000 cây số. Lẽ dĩ nhiên nó không phải  là Biển Lịch Sử hay Thềm Lục Địa của Trung Hoa.

VỀ TRUNG QUỐC SỬ LIÊN QUAN ĐẾN HOÀNG SA TRƯỜNG SA

Theo cuốn Lịch Sử Trung Quốc Thời Trung Cổ do Hàn Lâm Viện Trung Quốc xuất bản tại Đài Bắc năm 1978, trong bài “Nghiên Cứu về Lịch Sử và Địa Lý” học giả Hsieh Chiao-Min nhận định về cuộc Thám Hiểm của Trung Hoa tại Đại Dương như sau: “Suốt chiều dài lịch sử, về sự phát triển văn hóa và khoa học, dân tộc Trung Hoa không tha thiết đến đại dương. Thản hoặc nhà cầm quyền Trung Quốc cũng gửi những đoàn thám hiểm đại dương đến Nhật Bản trong các thế kỷ thứ 3 và thứ 2 Trước Công Nguyên, cũng như tại Đông Nam Á, Ấn Độ và Phi Châu trong thế kỷ 15. Điểm rõ nét nhất là tại Thái Bình Dương có rất ít, nếu không nói là không có, những vụ xâm nhập quy mô của Trung Quốc” suốt chiều dài lịch sử (từ nhà Tần thế kỷ thứ 3 Trước C. N. đến nhà Thanh từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 20). Chiao-Min Hsieh. Chinese History Middle Ages: China Academy, Taipei, 1978, p. 287).

Trong thời Đế Quốc Thứ Nhất đời Tần Hán (First Empire), những cuộc thám hiểm đại dương tại Đông Trung Quốc Hải và Biển Nhật Bản không phải để chinh phục vùng Biển Nam Hoa nơi tọa lạc các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Đặc biệt trong thế kỷ 15, từ đời Minh Thành Tổ (Vĩnh Lạc), Đô Đốc Thái Giám Trịnh Hòa đã 7 lần thám hiểm Tây Dương (Ấn Độ Dương). Và trong 28 năm, từ 1405 đến 1433, đã viếng thăm 37 quốc gia duyên hải đến Ba Tư, Biển Hồng Hải phía tây bắc, Đông Phi Châu phía cực tây và Đài Loan phía cực đông. Những cuộc thám hiểm này chỉ đi ngang qua Biển Nam Hoa nhằm khai phá Ấn Độ Dương. Lịch sử Trung Quốc cũng phê phán những cuộc thám hiểm đại dương đời nhà Minh vì đã làm kiệt quệ kinh tế đất nước. (The large  exploring expeditions that were to cross the South China Sea and explore the Indian Ocean were criticized by the court as poor to (an impoverishment of) the country. Chiao-Min Hsieh, Ibid, p. 290-291).

Những tài liệu lịch sử nêu trên đã được phổ biến tại Đại Hội Quốc Tế về Sử Địa Trung Quốc Kỳ I tại Đài Bắc năm 1968 và đã được đăng trong cuốn Lịch Sử Trung Quốc Thời Trung Cổ năm 1978.  
          
Như vậy theo chính sử Trung Quốc suốt từ thế kỷ thứ 3 Trước C.N. đến thế kỷ 15, dưới 3 triều đại Tần Thủy Hoàng, Hán Vũ Đế và Minh Thành Tổ không có tài liệu nào cho biết có các lực lượng hải quân Trung Quốc đi tuần thám để hành sử và công bố chủ quyền tại Biển Đông Hải, Biển Nam Hoa hay Biển Đông Nam Á.                                                                                                                                                                                                                                                                           
Theo Tân Từ Điển Thực Dụng Hán Anh xuất bản tại Hồng Kông  năm 1971 “Biển Nam Hải là vùng biển ven bờ chạy từ Eo Biển Đài Loan tới Quảng Đông” (The Southern Sea stretches from the Taiwan Strait to Kwantung.  A New Practical Chinese-English Dictionary, Hongkong 1971, p. 121)

Theo Từ Điển Từ Hải xuất bản năm 1948 thì “Biển Nam Hoa thuộc chủ quyền chung của 5 quốc gia là Trung Hoa, Pháp (Việt Nam), Anh(Mã Lai), Mỹ (Phi Luật Tân) và Nhật ( Đài Loan). Do đó Biển Nam Hải (Southern Sea) không phải là Biển Nam Hoa (South China Sea).
Sau này Trung Quốc lợi dụng danh xưng để mạo nhận rằng Biển Nam Hải của tỉnh Quảng Đông chính là Biển Nam Hoa của Trung Quốc.
Từ thế kỷ 15, các nhà thám hiểm đại dương và các nhà doanh thương  u, Á như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hòa Lan, Anh, Pháp, Ả Rập khi vượt Đại Tây Dương đến vùng biển tiếp giáp Ấn Độ, muốn cho tiện họ gọi vùng biển này là Ấn Độ Dương. Và khi qua Eo Biển Mã Lai đến vùng biển tiếp giáp Trung Hoa họ cũng tiện thể gọi vùng biển này là Biển Nam Hoa (ngoại nhân xưng Nam Trung Quốc Hải).

Sự trùng điệp danh xưng này của các nhà địa lý Tây Phương chỉ là sự ghi nhận một tập quán về ngôn ngữ hàng hải. Như vậy tên Biển Nam Hoa cũng như Ấn Độ Dương không có tác dụng công nhận chủ quyền của Trung Hoa và Ấn Độ tại các vùng biển này. Nó chỉ ghi nhận vị trí của Ấn Độ Dương là vùng tiếp giáp Ấn Độ, cũng như Biển Nam Hoa là vùng tiếp giáp miền Nam Trung Hoa. Vả lại, về diện tích, Biển Nam Hải (hay Biển Nam) chỉ rộng chừng 25km, trong khi Biển Nam Hoa chạy từ bờ biển Quảng Đông tới bờ biển Nam Dương và rộng tới 2000 km.

Trong những chuyến hải hành Trịnh Hòa chỉ dừng chân tại hải cảng Chaban (Trà Bàn hay Đồ Bàn) thủ phủ Chiêm Thành. Theo Giáo Sư John King Fairbank tại Đại Học Harvard, mục đích những chuyến công du này không phải để cướp bóc hay thôn tính lãnh thổ mà chỉ nhằm thiết lập bang giao với hàng chục quốc gia duyên hải tại Ấn Độ Dương.

(The Chinese expeditions were diplomatic not commercial, much less piratical or colonizing ventures. John King Fairbank, China, a New History, Harvard University Press 1992, p. 138).

Như vậy, theo chính sử Trung Quốc, từ các đời Tần Hán, Tam Quốc, Lưỡng Tấn, Nam Bắc Triều, Tùy Đường, Ngũ Đại, Tống Nguyên, Minh Thanh, sử sách không ghi chép việc hải quân Trung Quốc đi tuần thám Biển Đông Hải để chiếm hữu các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa đồng thời công bố và hành sử chủ quyền tại các quần đảo này.

          Năm 1075, dưới đời vua Lý Nhân Tông, Lý Thường Kiệt và Tôn Đản đem quân vượt biên vây đánh Châu Khâm, Châu Liêm tại Quảng Đông và Châu Ung tại Quảng Tây. Qua năm sau nhà Tống đem quân sang báo thù. Nhưng một lần nữa lại bị Lý Thường Kiệt đánh bại trên sông Như Nguyệt hay Sông Cầu (Bắc Ninh).

Sau 3 lần dụng võ thất bại, do trình tấu của Hoàng Thân Triệu Nhữ Quát, vua Tống Thần Tông phải theo chính sách “Trọng Võ Ái Nhân” (thận trọng việc võ bị, thương xót mạng người, không phơi binh nơi lam chướng), và đã thừa nhận nền độc lập của Đại Việt.
Thời Đế Quốc Nguyên Mông.

Qua thế kỷ 13 Trung Quốc bị Mông Cổ thôn tính trong gần 90 năm (1280-1368). Trước đó trong chiến dịch Tây Tiến, Thành Cát Tư Hãn đã chiếm giữ vùng Trung Á 6 ngàn dặm đến Hung Gia Lợi và nước Nga tại Bắc  u và Ba Tư tại Nam Á. Rồi quay về chiếm nước Tây Hạ, nước Kim và Triều Tiên. Trước đó, năm 1257 quân Mông Cổ đánh Vân Nam và tràn sang Việt Nam. Tuy nhiên, với quân dân một lòng, nhà Trần đã đánh tan quân Mông Cổ tại Đông Bộ Đầu. Đây là chiến thắng đầu tiên của Việt Nam đối với nhà Nguyên.
27 năm sau, năm 1284, con Nguyên Chủ Hốt Tất Liệt là Thoát Hoan kéo 50 vạn quân sang báo thù.

Trong Hội Nghị Diên Hồng các bô lão đồng thanh xin đánh. Dưới sự lãnh đạo của Trần Hưng Đạo, chỉ trong vòng 6 tháng, từ tháng 12-1284 đến tháng 6-1285, quân Đại Việt đã đánh đuổi quân Nguyên ra ngoài bờ cõi. Toa Đô bị bắn chết, Ô Mã Nhi bị đuổi quá gấp phải một mình lẻn xuống thuyền con chạy trốn, và Thoát Hoan phải chui ống đồng lên xe chạy thoát về Tầu.

Thời gian này Hốt Tất Liệt đã có kế hoạch thôn tính Quần Đảo Phù Tang. Nay quân Thoát Hoan đại bại kéo về, Nguyên Chủ phải đình chỉ kế hoạch Đông Tiến. Và hai năm sau, đầu năm 1287, Thoát Hoan lại tập trung lực lượng kéo 30 vạn quân sang Đại Việt để báo thù lần thứ hai.

Tuy nhiên, cũng như lần trước, chỉ trong vòng một năm quân Mông Cổ đã mua lấy thất bại. Ô Mã Nhi lần này bị bắt sống tại Bạch Đằng Giang. Sau đó quân Trần Hưng Đạo đại phá quân Nguyên khiến Thoát Hoan phải thu tàn binh tháo chạy về Yên Kinh. Và tại Thăng Long, vua Trần Nhân Tông đem các tướng nhà Nguyên bị bắt như Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp làm lễ hiến phù tại Chiêu Lăng. Đây là một vinh dự cho Đại Việt đã 3 lần đơn độc phá vỡ kế hoạch Nam Tiến (tại Việt Nam), đồng thời ngăn cản cuộc Đông Tiến (tại Nhật Bản) của đoàn quân mệnh danh là “bách chiến bách thắng” từ đời Thành Cát Tư Hãn.
 
Và sau ba phen thất bại, Nhà Nguyên không còn dòm ngó đến Việt Nam cả trên lục địa lẫn ngoài hải phận. Trong cuốn “Tranh Chấp tại Biển Nam Hoa” Marwyn S. Samuels cũng xác nhận rằng: “Trong suốt thế kỷ 14, các đội hải thuyền hùng mạnh của Nhà Nguyên có đi tuần tiễu, nhưng tại Biển Nam Hoa, các hải đảo Hoàng Sa và Trường Sa không bị chiếm đóng và cũng không thuộc chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc” (Marwyn S. Samuels: Contest for the South China Sea, Methuen, London, 1982).

“Trung Hoa không bao giờ là một cường quốc đại dương. Dân tộc Trung Hoa trong 4 ngàn năm chỉ sống về ruộng đất với những tập tục và quan niệm sống của nhà nông” (James Fairgrieve, Geography and World Power, London, 1921).

“Với các đặc tính của một dân tộc lục địa, Trung Hoa không phải là một cường quốc đại dương. Chú tâm của họ hướng về đất liền tại miền Trung Á hơn là ra hải ngoại. Do đó các kiến thức của họ về biển cả và duyên hải thật quá thô sơ”. (E. B. Elridge, The Background of Eastern Sea Power, Melbourne, 1948).

Đời Nhà Minh

Trong cuốn “Lịch Sử Trung Quốc Thời Trung Cổ” ghi trên, học giả Hsieh Chiao-Min ghi nhận rằng, theo chính sử, từ các thế kỷ thứ 3 và thứ 2 Trước C. N., người Trung Hoa chỉ đi tới Biển Nhật Bản và Đông Trung Quốc Hải. Họ không nghĩ có đất liền bên kia Thái Bình Dương. Do đó mọi cuộc thám hiểm đều hướng về Tây Dương.

Mãi đến thế kỷ 15 dưới đời Minh Thành Tổ (1403-1424) mới có những vụ thám hiểm đại dương từ Đông Nam Á đến Ấn Độ và Đông Phi.

Điều đáng lưu ý là về 7 chuyến công du tại trên 30 quốc gia trong 28 năm (từ 1405 đến 1433), chính sử Trung Hoa cũng ghi rõ phái bộ Trịnh Hòa chỉ đi qua Biển Nam Hoa nhằm thám hiểm Ấn Độ Dương. Như vậy không có chuyện phái bộ Trịnh Hòa đến các đảo Hoàng Sa và Trường Sa để chiếm hữu và hành sử chủ quyền.

Theo chính sử do các sử gia Trung Quốc trên thế giới hội nghị tại Đài Bắc năm 1968 và biên soạn năm 1978 thì trong các đời Tần Hán, Tùy Đường, Tống Nguyên và Minh Thanh, không thấy một dòng chữ nào đề cập việc Trung Quốc đem quân chiếm cứ các hải đảo tại Biển Đông Hải. Các chuyến hải hành chỉ vụ vào việc bành trướng thế lực ngoại giao và phát triển giao thương giữa Trung Hoa với các quốc gia Á Phi tại Ấn Độ Dương và Biển Ả Rập.

Riêng tại Đại Việt, Giáo Sư J.K. Fairbank cũng nói về cuộc xâm lăng khởi sự năm 1407 và kết thúc năm 1427. Kết cuộc, với những tổn thất đáng kể, nhà Minh phải trả chủ quyền độc lập cho Việt Nam năm 1428.

Dưới đời Nhà Thanh, trong ba thế kỷ từ 17 đến 20:
Theo bản đồ Hoàng Thanh Nhất Thống Dư Địa Tổng Đồ năm 1894 đời vua Quang Tự thì đến cuối  thế kỷ 19 “lãnh thổ của Trung Quốc   chỉ chạy đến đảo Hải Nam là hết” (Hải Nam cách Hoàng Sa 150 hải lý (275 km) về phía đông nam).

Qua thế kỷ 20 sự kiện này được xác nhận trong cuốn Trung Quốc Địa Lý Học Giáo Khoa Thư  xuất bản năm 1906 (cũng đời vua  Quang Tự) với đoạn như sau: “Điểm cực Nam của Trung Quốc là bờ biển Châu Nhai thuộc quận Quỳnh Châu (Hải Nam) tại Vĩ Tuyến 18”.

Trong bản đồ Đại Thanh Đế Quốc do Chính Phủ ấn hành cũng không thấy vẽ các quần đảo Hoàng SaTrường Sa, và không thấy ghi các danh xưng Hán hóa Tây Sa, Nam Sa.
Trong bộ Hải Quốc Đồ Ký, cuốn Hải Lục của Vương Bỉnh Nam (1820-1842) viết: “Vạn Lý Trường Sa (Hoàng Sa) là giải cát dài ngoài biển được dùng làm phên dậu che chắn mặt ngoài bờ cõi nước An Nam”. Như vậy có sự nhìn nhận rằng quần đảo này là biên thùy hải phận của Việt Nam.

Theo học giả Marwyn  S. Samuels  trong cuốn Tranh Chấp tại Biển Nam Hoa nói ở trên“không có bằng chứng nào cho thấy nhà Thanh đã chiếm hữu và sát nhập Hoàng Sa Trường Sa vào lãnh thổ Trung Quốc”.

Trong tập Địa Dư  Chí  Tỉnh Quảng Đông được vua Ung Chính duyệt phê năm 1731, không thấy ghi hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ Trung Quốc.

Trong bộ “Đại Thanh Nhất Thống Chí” do Quốc Sử Quán Trung Hoa biên soạn năm 1842 với lời tựa của vua Đạo Quang không có chỗ nào ghi Thiên Lý Trường Sa hay Vạn Lý Trường Sa (quần đảo Hoàng Sa) thuộc hải phận tỉnh Quảng Đông.

Đặc biệt là trong cuốn Hải Quốc Văn Kiến Lục của Trần Luân Quýnh (năm 1744), vùng hải phận của Việt Nam tại Biển Đông Hải được ghi bằng các danh xưng Việt Hải và Việt Dương.

Đời Hồng Đức lưu trữ tại Đông Dương Văn Khố Tokyo, tới hậu bán thế kỷ 15 dưới triều vua Lê Thánh Tông năm Hồng Đức nguyên niên (1470), Chiêm Thành đã là lãnh thổ của Đại Việt gồm có lục địa, hải phận và các hải đảo.

Đời Nhà Nguyên

Trong thế kỷ 13 Mông Cổ  bị Đại Việt 3 lần đánh bại trong 3 thập niên,vào những năm 1257, 1285 và 1287. Sau ba phen thất bại, Nhà Nguyên không còn dòm ngó Việt Nam từ trên lục địa đến ngoài hải phận. Và trong các thế kỷ 13 và 14, theo chính sử, quân Mông Cổ không xâm chiếm các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Theo cuốn Tranh Chấp tại Biển Nam Hoa của Marwyn Samuels  “trong thế kỷ 14 các đội hải thuyền hùng mạnh của nhà Nguyên có đi tuần tiễu, nhưng tại Biển Nam Hoa các hải đảo Hoàng Sa và Trường Sa  không bị chiếm đóng và không thuộc chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc” Cũng như các sách sử địa đời Nhà Thanh, cuốn Nguyên Sử Địa Lý Chí đã viết như sau: “Cương vực Trung Quốc đời Nhà Nguyên về phía Nam chỉ đến Đảo Hải Nam, và về phía Bắc không quá Sa Mạc Gobi”.

Đời Nhà Tống

Như trong thế kỷ 13 đời Nhà Nguyên, trong hai thế kỷ thứ 10 và 11 Việt Nam cũng đã 3 lần đánh thắng Nhà Tống trong những năm 981, 1075 và 1076.

Sau 3 phen thất trận, theo trình tấu của Hoàng Thân Triệu Nhữ Quát, vua Tống Thần Tông đã phải theo chính sách Trọng Võ Ái Nhân (thận trọng việc võ bị, thương xót mạng người, không phơi binh nơi lam chướng). Và đã thừa nhận nền độc lập của Đại Việt.
Sách Chư Phiên Chí của Triệu Nhữ Quát nhìn nhận rằng quần đảo Hoàng Sa mà tác giả gọi là Thiên Lý Trường Sa (Bãi Cát Dài Ngàn Dặm) là đất của nước phiên thuộc An Nam,
Trong đời Nam Tống cuốn Lĩnh Ngoại Đại Đáp của Chu Khứ Phi cũng xác nhận: “Vạn Lý Trường Sa (Hoàng Sa) tọa lạc tại Giao Chỉ Dương”.

Từ đời Tần Hán thế kỷ thứ 3 Trước C.N.  đến thế kỷ 20 đời Nhà Thanh, không thấy tài liệu nào, hay nói rõ hơn, không có câu nào ghi rằng Biển Đông Hải với Hoàng Sa Trường Sa thuộc chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc.

Theo lịch sử Trung Quốc, Cuốn Lĩnh Ngoại Đại Đáp của Chu Khứ Phi đời Nhà Tống gọi vùng biển Hoàng SaTrường Sa là Giao Chỉ Dương.
Ngày nay, với “tứ hiện đại hóa”, Trung Quốc đã biểu lộ tính hiếu chiến trong chính sách bành trướng cả về kinh tế lẫn chủ quyền lãnh thổ. Quân đội Trung Quốc đang tăng cường sức mạnh để hy vọng có ngày đủ phương tiện nhằm lọai trừ hay phòng ngừa sự can thiệp của Hoa Kỳ tại Á Châu Thái Bình Dương. Sau đó, theo truyền thống và tự hào lịch sử, họ sẽ bước vào giai đoạn đối đầu với phe Dân Chủ Tây Phương. Họ kỳ vọng rằng với quyết tâm và phát triển kinh tế, hệ thống Trung Quốc sẽ nổi bật trên thế giới khiến các quốc gia khác phải khâm phục và mặc nhiên chấp thuận để họ thôn tính các vùng lãnh thổ và hải đảo tại Á Châu Thái Bình Dương.

Ngày nay,  cùng với người Việt  trong và ngoài nước, chúng ta thách thức Bắc Kinh công khai đưa vụ tranh chấp chủ quyền các hải đảo và hải phận tại Biển Đông Hải, Biển Nam Hoa hay Biển Đông Nam Á ra  trước các cơ quan tài phán, trọng tài hay tham vấn theo thủ tục quốc tế. (Judicial litigation, arbitration or consultation)

Tại vùng Biển Đông Nam Á, rập theo tham vọng của Đế Quốc La Mã hồi thế kỷ thứ nhất coi Địa Trung Hải là Biển Lịch Sử La Mã, Bắc Kinh cũng đưa ra thuyết Biển Lịch Sử hay Lưỡi Rồng Trung Quốc (mà dân gian gọi là Lưỡi Bò). Họ coi đó là mục tiêu chiến lược từ sau 1951. Nhất là từ 1982 khi Trung Quốc ký Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển.
Tuy nhiên thuyết Biển Lịch Sử ngày nay đã lỗi thời. Nó đi trái Điều 8 Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển và đi trái Luật Tục Lệ Quốc Tế của Tòa Án Quốc Tế The Hague. 
Tòa Án Quốc Tế định nghĩa “biển lịch sử là nội hải”.

Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển 1982 đã kết thúc mọi cuộc tranh luận khi quy định trong Điều 8 như sau:

“Ngoại trừ trường hợp các quốc gia quần đảo [như Phi Luật Tân hay Nhật Bản] Biển Lịch Sử hay nội hải của một quốc gia nằm bên trong đất liền, về phía bên trong đường cơ sở (ranh giới) của biển lãnh thổ. The International Court of Justice has defined historic waters as “internal waters”; “Waters on the landward side of the baseline of the territorial sea form part of the internal waters of the State” (Art. 8 UNCLOS 1982).

Năm 1988, lần đầu tiên hải quân Trung Quốc tấn công võ trang các đảo Trường Sa, và đã chiếm Đá Chữ Thập và Đá Gaven cùng một số đá chìm và bãi ngầm.
Những vụ chiếm cứ này không có tính hòa bình mà do xâm lăng võ trang nên không được luật pháp và tòa án bảo vệ. Vì nó đi trái Điều 2 Hiến Chương Liên Hiệp Quốc. Cũng như thời Thế Chiến II, Nhật Bản đã chiếm cứ Hoàng Sa và Trường Sa bằng võ lực nên không có tư cách chủ quyền hợp pháp.
Cho đến ngày 1-9-1951 Trung Quốc mới lên tiếng đòi “chủ quyền lịch sử “ tại Hoàng Sa và Trường Sa.
           Tuy nhiên, theo cuốn Trung Quốc Địa Lý Học Giáo Khoa Thư  xuất bản năm 1906 đời vua Quang Tự Nhà Thanh “Điểm cực Nam của Trung Quốc là bờ biển Châu Nhai thuộc quận Quỳnh Châu (Hải Nam) tại Vĩ Tuyến 18”.
           Theo Minh Sử, đời vua Lê Thánh Tông từ thế kỷ 15 (năm 1470), các đảo Hoàng Sa và Trường Sa nguyên là địa bàn ngư nghiệp của Chiêm Thành đã trở thành lãnh thổ của Đại Việt.
Theo Nguyên Sử “Cương vực Trung Quốc đời Nhà Nguyên về phía Nam chỉ đến Đảo Hải Nam, và về phía Bắc không quá Sa Mạc Gobi”.
Do đó, về công pháp quốc tế, thuyết Biển Lịch Sử không còn là một vấn đề tranh nghị tại các Tòa Án Trọng Tài hay các Tòa Án Luật Biển. Vì thuyết này đi trái với Luật Tục Lệ Quốc Tế của Tòa Án Quốc Tế The Hague, và đã bị Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển bác bỏ trong Điều 8.
Vì biết rõ điều đó nên Trung Quốc không dám đưa vụ tranh chấp hải phận và các hải đảo tại Biển Đông Nam Á ra trước Tòa Án Quốc Tế, Tòa Án Luật Biển hay Tòa Án Trọng Tài Liên Hiệp Quốc.
Theo chuyên gia quốc tế Mark J. Valentia Thuyết Biển Lịch Sử của Bắc Kinh càng ngày càng bị chê cười là lố bịch (criticized and rediculed)


 
BẮC CỰ BÁ QUYỀN ĐÔNG HÒA PHI MÃ
LUẬT PHÁP VÀ TRẬT TỰ TẠI BIỂN ĐÔNG NAM Á
(SONG NGỮ)

Ngày 14-7-1995, nhân kỳ Đại Hội ASEAN tại Brunei, Luật Sư Nguyễn Hữu Thống, Chủ Tịch Hội Luật Gia Việt Nam tại California đã gửi văn thư cho 7 vị nguyên thủ quốc gia trong Hiệp Hội các Quốc Gia Đông Nam Á là Phi Luật Tân, Mã Lai, Nam Dương, Brunei, Tân Gia Ba, Thái Lan và Việt Nam để trình bày về vấn đề giải quyết các vụ tranh chấp tại Biển Đông Nam Á theo những quy luật dự liệu trong Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển 1982.
Theo các quan sát viên quốc tế, văn thư này đưa ra giải đáp ưu tiên hàng đầu cho vấn đề tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc. Bằng cách dùng phương thức tranh nghị để đi đến hòa bình. (The Discussion Proceeds for Peace).
Dưới đây là văn thư của Luật Sư Nguyễn Hữu Thống gửi Tổng Thống Phi Luật Tân Fidel Ramos:
Thưa Tổng Thống,
Nhân danh Hội Luật Gia Việt Nam tại California, chúng tôi xin trình bày cùng Tổng Thống vấn đề tranh chấp tại quần đảo Trường Sa.
Bẩy năm trước đây, có trận hải chiến giữa Việt Nam và Trung Quốc tại vùng biển Trường Sa. Trong dịp này Trung Quốc đòi chủ quyền lãnh thổ tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, và đã chiếm cứ một số hải đảo gây nên mâu thuẫn và tranh chấp giữa Trung Quốc với Việt Nam và Phi Luật Tân.
Mới đây Trung Quốc còn lấn chiếm một số cồn, đá, bãi toạ lạc tại thềm lục địa Phi Luật Tân như Mischief Reef, Half Moon Shoal, Sabina Shoal và Jackson Bank. Hành động này đe dọa an ninh toàn vùng Đông Nam Á và cản trở sự tự do giao thương tại Biển Nam Hải.
Từ 3 năm trước, Trung Quốc cũng xâm chiếm một vùng biển tại Bãi Tứ Chính (Vanguard Bank) mà họ gọi là Bãi Vạn An (Wanan Bei) để tự tiện nhượng quyền khai thác dầu khí cho Hãng Crestone. Vùng bãi này nằm trong Thềm Lục Địa Việt Nam cách bờ biển 190 hải lý về phía đông nam.Phía đông Bãi Tứ Chính nơi Hãng Crestone đang khai thác dầu khí là quần đảo Trường Sa, đối tượng tranh chấp giữa Trung Quốc, Việt Nam, Phi Luật Tân, Mã Lai, Brunei, Nam Dương và Đài Loan.
Lưỡi Rồng Trung Quốc hình chữ U, mà Bắc Kinh gọi là “Đặc Khu Hành Chánh Hải Nam”, chiếm 80% Biển Nam Hải, phía đông giáp Phi Luật Tân, phía tây giáp Việt Nam và phía nam giáp Mã Lai, Brunei và Nam Dương, điểm xa nhất cách Hoa Lục 1,100 hải lý (hay 2000km). Hành động như vậy Trung Quốc coi Biển Nam Hải là nội hải của họ (internal waters), cũng như Đế Quốc La Mã ngày xưa gọi Địa Trung Hải là “Biển Của Chúng Tôi” (Mare Nostrum).
Chiếu Điều 57 Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, các quốc gia duyên hải có đặc quyền đánh cá tại Vùng Đặc Quyền Kinh Tế 200 hải lý (Exclusive Economic Zone).
Chiếu Điều 76 Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, các quốc gia duyên hải có đặc quyền thăm dò và khai thác dầu khí tại thềm lục địa (continental shelf) kéo dài từ 200 hải lý đến 350 hải lý, nếu về mặt địa hình, thềm lục địa là sự tiếp nối tự nhiên của nền lục địa (continental margin) từ đất liền ra ngoài biển. Về mặt pháp lý các quốc gia duyên hải đã ký kết hay tham gia Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển đương nhiên được hưởng quy chế thềm lục địa pháp lý 200 hải lý. Đó là trường hợp của các quốc gia Đông Nam Á như Phi Luật Tân, Mã Lai, Nam Dương, Brunei, Tân Gia Ba, Thái Lan và Việt Nam (Việt Nam đã đăng ký thềm lục địa pháp lý 200 hải lý từ năm 1982).
Chiếu Điều 77 Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển các quốc gia duyên hải có chủ quyền tuyệt đối tại thềm lục địa để thăm dò và khai thác những tài nguyên thiên nhiên. Đây là đặc quyền chuyên hữu theo đó không ai có quyền thăm dò và khai thác dầu khí nếu không có sự ưng thuận minh thị của quốc gia duyên hải. Những quyền này không tùy thuộc vào điều kiện phải có sự chiếm cứ hay công bố minh t
Điều 81 Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển một lần nữa xác nhận chủ quyền tuyệt đối và đặc quyền  chuyên hữu của quốc gia duyên hải trong việc tự mình đứng ra thăm dò và khai thác dầu khí, hay ký hiệp ước cộng tác với các quốc gia đệ tam về những dịch vụ này.
Chiếu nguyên tắc “các hiệp ước quốc tế phải được tôn trọng”, Điều 26 Công Ước Vienna về Luật Hiệp Ước (1969) quy định như sau: “Các hiệp ước có hiệu lực chấp hành  buộc các quốc gia kết ước phải ngay tình thi hành hiệp ước”. Ủy Ban Liên Hiệp Quốc về Luật Quốc Tế coi đó là “một nguyên tắc căn bản về luật hiệp ước, có lẽ là nguyên tắc quan trọng nhất trong công pháp quốc tế”.
Chiếu nguyên tắc về giá trị thượng tôn của Luật Quốc Tế đối với Luật Quốc Nội, các quốc gia kết ước phải thực sự thi hành những quyến hạn và nghĩa vụ ghi trong các hiệp ước hay công ước quốc tế. Họ không thể viện dẫn luật quốc nội để khước từ thi hànnghĩa vụ của họ ghi trong các hiệp ước và công ước quốc tế mà họ đã ký kết hay tham gia.
Đó chính là trường hợp của Trung Quốc. Sau khi ký Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982, 10 năm sau, năm 1992, Bắc Kinh ban hành Luật Quốc Gia về Biển (Domestic Law of the Sea) xâm phạm chủ quyền lãnh thổ tại các Thềm Lục Địa Việt Nam và Phi Luật Tân, cũng như tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Những vi phạm luật biển phải được đệ trình Tòa Án Quốc Tế (The Hague) hay các Tòa Án Luật Biển thiết lập do Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển. Muốn giải quyết những mâu thuẫn và tranh chấp về thềm lục địa, về hải phận hay về hải đảo, các quốc gia đương tụng phải, trước hết, tuân hành những phương thức ôn hòa như điều đình, hòa giải, thương nghị hay trọng tài.
Ngoài ra Tòa Án Quốc Tế cũng có thẩm quyền giải thích và áp dụng những điều khoản của Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển có hiệu lực chấp hành từ năm 1994.
Sự giải quyết tranh chấp bằng những phương pháp ôn hòa như hòa giải, thương nghị, trọng tài hay tố tụng sẽ giúp cho Đông Nam Á khỏi biến thành vùng tranh chấp thường xuyên như Trung Đông. Với việc sử dụng luật pháp (pháp trị) thay thế việc sử dụng võ lực (phi pháp), Đông Nam Á sẽ có cơ may được hưởng một kỷ nguyên hòa bình, ổn định, hợp tác và phồn thịnh.
Nhân dịp này chúng tôi cũng thỉnh cầu các quốc gia hội viên trong Hiệp Hội các Quốc Gia Đông Nam Á ra quyết định đổi danh xưng Biển Nam Hải thành Biển Đông Nam Á. Danh từ Nam Hải chỉ áp dụng cho Trung Quốc. Đối với Việt Nam nó có tên là Biển Đông. Đối với Tân Gia Ba, Nam Dương, Mã Lai và Brunei nó là Bắc Hải. Đối với Phi Luật Tân nó là Biển Tây.
Hơn nữa danh xưng Nam Hải có thể bị ngộ nhận và giải thích sai lạc là Biển của Trung Hoa về phía Nam. 
Hãy trả Caesar những gì của Caesar.
Và hãy trả Biển Đông Nam Á cho các Quốc Gia Đông Nam Á.
Chúng tôi xin cám ơn sự chú tâm của Tổng Thống về vấn đề này.
Kính thư,
Thay mặt Hội Luật Gia Việt Nam tại California.
Chủ Tịch,
Luật Sư Nguyễn Hữu Thống.
                                             
Nguyên Bản Anh Ngữ

In the Matter of Law & Order in Southeast Asian Sea
Editorial Note
Attorney at Law Nguyen Huu Thong, President of the Vietnamese Lawyers Association, Inc. in San Jose, recently sent to leaders of South East Asian governments a letter to urge them to submit the matter South East Asian Sea conflict to an international tribunal. Following is his letter to President Fidel Ramos of the Philippines (Asian Wall Street Journal July 1995.)

CALIFORNIA VIETNAMESE LAWYERS ASSOCIATION, INC.
San Jose, July 14, 1995
President FIDEL RAMOS
c/o Philippine Consulate General
447 Sutter Street, Sixth Floor San Francisco, CA 94108
RE: Law and Order in Southeast Asian Sea.
Dear Mr. President:
On behalf of the California Vietnamese Lawyers Association, I would like to submit for your consideration the Spratly conflict.
Seven years ago there was a naval battle between China and Vietnam in the Spratly Islands. China’s declaration of sovereignty over the Paracels and the Spratlys and their occupation by Chinese navy have sparkled conflict with Vietnam and the Philippines.
Recently, the incidents at Mischief Reef, Half Moon Shoal, Sabina Shoal and Jackson Bank on the Philippine continental shelf have threatened the security of the area and the freedom of navigation in the South China Sea.
At Vanguard Bank called Tu Chinh or Wanan Bei, China and Vietnam are claiming a potentially oil rich tract that China awarded to Crestone Corporation three years ago. That tract lies on Vietnam’s continental shelf about 190 nautical miles southeast of Ho chi Minh City.
The Spratly Islands, east of the disputed Crestone contract area, are contested by a number of countries including China, Vietnam, the Philippines, Malaysia, Brunei and Taiwan.
The "U Shaped" area of Nan Hai (South Sea) known as the "Dragon Tongue" claimed by China as "Hainan Special Administration District" encompasses 80% of the South China Sea, eastward to the Philippines, westward to Vietnam and southward to Malaysia, Brunei and Indonesia, the farthest spot having a distance of 1,100 nautical miles (2000 Km) from mainland China. By doing so, China has considered the South China Sea as its "internal waters", the same way as the Roman Empire called the Mediterranean Sea "Mare Nostrum" (our sea).
By international law, pursuant to Article 57 of the United Nations Convention on the    Law of the Sea (1982) (LOS Convention), all coastal states, have been granted exclusive fishing rights in the Exclusive Economic Zone extending 200 nautical miles from shore.
Article 76 of the LOS Convention gives coastal states exclusive rights to drill for oil and gas in the continent shelf up to 350 nautical miles from their coasts. The continental shelf comprises the sea bed and subsoil of the submarine areas that extend throughout the natural prolongation of its land territory to the outer edge of the continental margin, or to a distance of 200 nautical miles from the baselines. For those coastal states who have not-declared a continental shelf of up to 200 nautical miles from the baselines, they are entitled to it ab initio, ipso facto and ipso jure under customary international law, and the 1982 Law of the Sea Convention to which they are signatories (See the Libya/ Malta Continental Shelf Case, ICJ Report 1985, 13). These are the cases of the Philippines, Indonesia, Singapore, Malaysia, Brunei and China (Vietnam has declared its continental shelf of 200 nautical miles from the baselines in 1982).
That 200-nautical miles continental shelf is called the Legal Continental Shelf.
Article 77 of the LOS Convention gives sovereign and exclusive rights to the coastal states over the continental shelf:
The coastal State exercises sovereign rights over the continental shelf for the purpose of exploring it and exploiting its natural resources.
These rights are exclusive in the sense that if the coastal State does not explore the continental shelf or exploit its natural resources, no one may undertake these activities without the express consent of the coastal State.
The rights of the coastal State over the continental shelf do not depend on occupation, or on any express proclamation.
Concerning the drilling on the continental shelf, Article 81 of the LOS Convention provides that "the coastal State shall have the exclusive right to authorize and regulate drilling on the continental shelf for all purposes".
Pursuant to Articles 88 and 89 of the LOS Convention “the High Sea shall be reserved for peaceful purposes. No State may validly purport to subject any part of the high seas to its sovereignty”. Therefore, China could not claim its sovereignty over the high seas or the open waters of sea beyond the limits of its zone of national jurisdiction with its 12 nautical mile-territorial sea and 200 nautical mile-exclusive economic zone or legal continental shelf. In the Southeast Asian Sea (South China Sea) China does not have any geological continental shelf extending beyond 200 nautical miles.
Scarborough Shoal of Philippines and Vanguard Bank of Vietnam, both located over six hundred nautical miles from China, are its high seas.
The rule Pacta Sunt Servanda applies for the observance of Treaties.
Article 26 of the Vienna Convention on the Law of Treaties (1969) declares that "every treaty in force is binding upon the parties to it and must be performed by them in good faith". The United Nations International Law Commission in its commentaries to this rule, characterized it as a "fundamental principle of the law of treaties, perhaps the most important principle of international law". (See 1966 Report on the I.L.C. reproduced in 61 Am. Int’l L. 248 at 334)(1967).
According to the rule of supremacy of international law, the rights and obligations-which a state has, by international law are, on the international plane, superior to any rights or duties it may have under its domestic law. Article 27 of the Vienna Convention provides that "a party may not invoke the provisions of its internal law as justification for its failure to: perform a treaty". That failure to perform would constitute a breach of international law requesting remedies with provisional measures in case the urgency of the situation required it.
Therefore, China should not invoke its domestic Law of the Sea promulgated in 1992 to encroach upon the Vietnamese and Philippine Continental Shelves and the whole Spratly and Paracel archipelagoes. These violations of the law of the sea should be submitted to the International Court of justice or the International Tribunal For the Law of the Sea for the resolution of disputes in case the parties do not reach an agreement by negotiation and conciliation. The International Court Tribunal has jurisdiction over the matters relating to the interpretation or application of the LOS Convention. Until December 1982, the Convention was signed by 119 states. It has come into force on November 16, 1994 after its ratification by 60 states.
On July 29, 1994, the United States signed the Agreement Relating to the Implementation of Part XI of the LOS Convention. Last October, President Bill Clinton transmitted a letter to the U.S. Senate asking its consent to accession to the LOS Convention.
The settlement of these disputes by peaceful means such as negotiation conciliation and judicial proceed 9 would keep Southeast Asia from becoming another Middle East. With the rule of law taking the place of the use of force, Southeast Asia may soon experience a period of peace, stability, cooperation and prosperity.
I would like to seize this opportunity to propose that you change the name "South China Sea" to "Southeast Asian Sea'. The appellation of South Sea (Nan Hai) is good only for China; the East Sea (Bien Dong) applies only to Vietnam. As for Singapore, Indonesia, Malaysia and Brunei, it should called North Sea; and for the Philippines, the correct name be West Sea.
Furthermore, the name South China Sea could be interpreted erroneously as the Sea of China in the South.
Let us give to Caesar what belongs to Caesar, and give Southeast Asian Sea to the Southeast Asian countries.


Thank you for your attention to this matter,
Yours sincerely,
For the California Vietnamese Lawyers Association, Inc.
The President,
NGUYEN HUU THONG, ESQ.

\

ĐÔNG HÒA PHI MÃ

VĂN THƯ GỬI TỔNG THỐNG PHI LUẬT T N BENIGNO AQUINO

Ngày 14-7-1995, nhân kỳ Đại Hội ASEAN tại Brunei, nhân danh Hội Luật Gia Việt Nam tại California, người viết đã gửi văn thư đến 7 vị nguyên thủ quốc gia trong Hiệp Hội các Quốc Gia Đông Nam Á  là Phi Luật Tân,, Mã Lai, Brunei, Nam Dương, Tân Gia Ba,  Thái Lan và Việt Nam. Để trình bầy vấn đề giải quyết các vụ tranh chấp tại Biển Đông Nam Á theo những quy luật dự liệu trong Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển 1982.

Theo các cơ quan truyền thông quốc tế, văn thư này đưa ra giải pháp cho vấn đề tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc. Bằng cách dùng phương thức Thương Nghị để đi đến Hòa Bình. (The Discussion Proceeds for Peace: Asian Wall Street Journal, July 1995).
 
Ngày 31-5-2012, nhân vụ tranh chấp giữa Phi Luật Tân và Trung Quốc tại Scarborough Shoal, thay mặt Ủy Ban Luật Gia Bảo Vệ Dân Quyền, người viết đã gửi văn thư đến Tổng Thống Phi Luật Tân Benigno Aquino để trình bầy về những khía cạnh pháp lý liên quan đến vụ Bãi Cạn Scarborough cũng như toàn vùng Biển Đông Nam Á nơi tọa lạc các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Sau đây là nguyên văn bức thư nói trên:

Kính thưa Tổng Thống,

Ngày 14-7-1995, nhân danh Hội Luật Gia Việt Nam tại California, chúng tôi đã gửi văn thư đến Tổng Thống Fidel Ramos để yêu cầu đưa vụ tranh chấp tại Biển Đông Nam Á ra trước Tòa Án Quốc Tế Về Luật Biển. Ngày nay, với vụ tranh chấp Bãi Cạn Scarborough tọa lạc tại Vùng Đặc Quyền Kinh Tế và Thềm Lục Địa Phi Luật Tân, chúng tôi xin trình bầy với Tổng Thống vấn đề liên quan đến các hải đảo và vùng biển Trường Sa.

Tháng 4-1956, khi Hải Quân Pháp  rút khỏi Việt Nam sau Hiệp Định Geneva 1954, Trung Quốc chiếm 7 đảo Hoàng Sa của Việt Nam phía đông bắc.

Tháng 1-1974, khi Quân Lực Hoa Kỳ rút khỏi Việt Nam sau Hiệp Định Paris 1973 Trung Quốc chiếm nốt 6 đảo Hoàng Sa phía tây nam.

Tháng 3-1988, khi Liên Xô tài giảm viện trợ cho Việt Nam, Trung Quốc chiếm 7 đá bãi Trường Sa như: Đá Chữ Thập (Fiery Cross Reef), Đá Gaven và Đá Johnson.

Tháng 8-1990, Thủ Tướng Trung Quốc Lý Bằng (Li Peng) đưa ra đề nghị khai thác chung (về đánh cá và khai thác dầu khí) tại toàn vùng Biển Đông Nam Á với điều kiện tiên quyết là các quốc gia Đông Nam Á phải thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc tại vùng biển này.

Tháng 2-1992, Trung Quốc ban hành Luật Quốc Gia về Biển và khẳng định rằng tất cả các hải đảo tại Biển Nam Hoa từ xưa vẫn thuộc chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc. Họ coi đó là một vấn đề “bất khả tranh nghị”. Căn cứ vào Luật Quốc Nội, Trung Quốc chiếm một vùng biển tại Bãi Tứ Chính (Vanguard Bank) mà họ gọi là Wanan Bei (Vạn An Bắc) để tự tiện nhượng quyền khai thác dầu khí cho hãng Creston. Bãi biển này nằm trong Vùng Đặc Quyền Kinh Tế và Thềm Lục Địa Việt Nam cách  Biển Lãnh Thổ Việt Nam 190 hải lý (Territorial Sea).

Ngoài ra Bắc Kinh còn khẳng định rằng “các hải đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà họ gọi là Tây Sa và Nam Sa có quyền được hưởng quy chế Vùng Đặc Quyền Kinh Tế (đánh cá) kể cả Vùng Đáy Biển (Seabed)” (để khai thác dầu khí).
Điều này đi ngược lại Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển trong Điều 121:

“Những đảo, cồn đá, bãi không có thường dân cư ngụ và không thể tự túc về kinh tế không được hưởng quy chế Vùng Đặc Quyền Kinh Tế và Thềm Lục Địa”. Những tiểu đảo này chỉ được hưởng quy chế 12 hải lý Biển Lãnh Thổ.

Năm 1995, Trung Quốc lấn chiếm một số đảo, cồn, đá, bãi tọa lạc tại Thềm Lục Địa Phi Luật Tân như Mischief Reef, Half Moon Shoal, Sabina Shoal và Jackson Bank. Hành động này đe dọa an ninh toàn vùng Đông Nam Á và cản trở sự Tự Do Hàng Hải tại miền thế giới này.

“Lưỡi Bò Hình Chữ U theo Đường 9 Đoạn” mà Bắc Kinh gọi là “Biển Lịch Sử Trung Quốc” chiếm 80% Biển Đông Nam Á, phía đông giáp Phi Luật Tân, phía tây giáp Việt Nam và phía nam giáp Mã Lai, điểm xa nhất cách Hoa Lục 1,100 hải lý (2,000 cây số).  Hành động như vậy Trung Quốc coi Biển Đông Nam Á là Nội Hải (Internal Waters). Cũng như Đế Quốc La mã trong Thế Kỷ Thứ Nhất gọi Địa Trung Hải là “Biển Của Chúng Tôi” (Mare Nostrum/ Our Sea).

Chiếu Điều 57 Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển các quốc gia duyên hải có đặc quyền đánh cá tại Vùng Đặc Quyền Kinh Tế 200 hải lý tính từ Biển Lãnh Thổ ra khơi.

Chiếu Điều 76 Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển các quốc gia duyên hải có đặc quyền thăm dò và khai thác dầu khí tại Thềm Lục Địa 200 hải lý, hay rộng hơn, nếu về mặt địa chất, Thềm Lục Địa là sự tiếp nối tự nhiên của Nền Lục Địa (Continental Margin) từ đất liền kéo dài ra ngoài biển.

Về mặt pháp lý các quốc gia duyên hải đã ký kết hay tham gia Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển đương nhiên được hưởng quy chế Thềm Lục Địa Pháp Lý 200 hải lý tính từ Biển Lãnh Thổ ra khơi.

Chiếu Điều 77 Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển các quốc gia duyên hải có chủ quyền tuyệt đối tại thềm lục địa để thăm dò và khai thác những tài nguyên thiên nhiên. Đây là đặc quyền chuyên hữu theo đó không ai có quyền thăm dò và khai thác dầu khí nếu không có sự ưng thuận minh thị của quốc gia duyên hải. Đặc quyền này không tùy thuộc vào điều kiện phải có sự chiếm cứ hay công bố minh thị của quốc gia duyên hải.

Điều 81 Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển một lần nữa xác nhận chủ quyền tuyệt đối và đặc quyền chuyên hữu của quốc gia duyên hải trong việc tự mình đứng ra thăm dò và khai thác dầu khí, hay ký khế ước cộng tác với các quốc gia đệ tam về những dịch vụ này.

Chiếu Điều 88 Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển“các Vùng Biển Khơi (High Seas) chỉ được sử dụng trong những mục tiêu hòa bình”.

Chiếu Điều 89 Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển “các quốc gia duyên hải không được xâm chiếm Vùng Biển Khơi (High Seas), và không được coi đó là lãnh thổ thuộc chủ quyền của họ”.

Như vậy tại Biển Đông Nam Á Trung Quốc không có quyền đòi Vùng Biển Khơi ngoài hải phận luật định 212 hải lý của họ (gồm 12 hải lý Biển Lãnh Thổ, và 200 hải lý Vùng Đặc Quyền Kinh Tế hay Thềm Lục Địa Pháp Lý).

Ngoài ra,  tại Biển Đông Nam Á, Trung Quốc không được hưởng quy chế Thềm Lục Địa Địa Chất (Geological Continental Shelf) còn gọi là Thềm Lục Địa Mở Rộng quá 200 hải lý (Extended Continental Shelf).
Vì tại Biển Đông Nam Á, trên kinh tuyến 112 có một rãnh biển sâu tới 2600 mét tại vỹ tuyến 18 (phía nam Đảo Hải Nam), và một rãnh biển khác tại vỹ tuyến 12 sâu tới 4500 mét.

Như vậy đáy biển Trung Hoa không phải là sự tiếp nối tự nhiên của nền lục địa từ đất liền kéo dài ra ngoài biển. Trong trường hợp này, chiếu Điều 76 Khoản 4 và 6, Trung Hoa không có thềm lục địa địa chất hay thềm lục địa mở rộng quá 200 hải lý.

Bãi Cạn Scarborough Shoal của Phi Luật Tân cách Đảo Hải Nam 560 hải lý, và Bãi Tứ Chính (Vanguard Bank) của Việt Nam cách Đảo Hải Nam 780 hải lý, là những Vùng Biển Khơi của Trung Quốc (High Seas) nên không thuộc chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc chiếu Điều 89 Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển.

Chiếu nguyên tắc “Các Hiệp Ước Quốc Tế Phải Được Tôn Trọng”, Điều 26 Công Ước Vienna về Luật Hiệp Ước (1969) quy định như sau: “Các Hiệp Ước có hiệu lực chấp hành buộc các quốc gia kết ước phải ngay tình thi hành hiệp ước”. Ủy Ban Liên Hiệp Quốc về Luật Quốc Tế coi đó là “một nguyên tắc căn bản về Luật Hiệp Ước, có lẽ là nguyên tắc quan trọng nhất trong Công Pháp Quốc Tế”.

Chiếu nguyên tắc về “Giá Trị Thượng Tôn của Luật Quốc Tế đối với Luật Quốc Nội”, các quốc gia kết ước phải thực sự thi hành những quyền hạn và nghĩa vụ trong các hiệp ước và công ước quốc tế. Họ không thể viện dẫn Luật Quốc Nội để khước từ thi hành nghĩa vụ của họ trong các hiệp ước và công ước quốc tế mà họ đã ký kết hay tham gia.

Đó chính là trường hợp của Trung Quốc. Sau khi ký Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982, 10 năm sau, năm 1992, Trung Quốc ban hành Luật Quốc Nội Về Biển (Domestic Law of the Sea) để xâm phạm chủ quyền lãnh thổ tại các Thềm Lục Địa Việt Nam và Phi Luật Tân, cũng như tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Những vi phạm Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển phải được đệ trình Tòa Án Quốc Tế (The Hague) hay các Tòa Án Luật Biển thiết lập trong Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển.

Muốn giải quyết những mâu thuẫn và tranh chấp về thềm lục địa, hải phận hay hải đảo, các quốc gia đương tụng phải trước hết tuân hành những phương thức ôn hòa như điều đình, hòa giải, thương nghị hay trọng tài.

Ngoài ra Tòa Án Quốc Tế cũng có thẩm quyền giải thích và áp dụng những điều khoản của Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển có hiệu lực chấp hành từ năm 1994.

Sự giải quyết tranh chấp bằng những phương pháp ôn hòa như hòa giải, thương nghị, trọng tài hay tố tụng sẽ giúp Đông Nam Á khỏi biến thành một vùng tranh chấp thường xuyên như Trung Đông (Tây Á). Với việc sử dụng luật pháp (Pháp Trị) thay thế việc dùng võ lực (phi pháp), Đông Nam Á sẽ có cơ may được hưởng một kỷ nguyên hòa bình, ổn định, hợp tác và phồn thịnh.

Nhân dịp này chúng tôi thỉnh cầu các Quốc Gia Hội Viên trong Hiệp Hội các Quốc Gia Đông Nam Á ra quyết nghị đổi danh xưng Biển Nam Hoa thành Biển Đông Nam Á.

Danh xưng Nam Hải chỉ áp dụng cho Trung Quốc. Đối với Việt Nam nó có tên là Việt Nam Đông Hải. Đối với Mã Lai nó là Bắc Hải. Mới đây Chính Phủ Phi Luật Tân đã dùng danh xưng Biển Tây của Phi Luật Tân. Đó cũng là đề nghị của Hội Luật Gia Việt Nam tại California trong Văn Thư gửi Tổng Thống Fidel Ramos ngày 14-7-1995.

Hơn nữa danh xưng Biển Nam Hoa thường bị ngộ nhận và giải thích xuyên tạc là biển của nước Trung Hoa về phía Nam.

Hãy trả Caesar những gì của Caesar
Và trả Biển Đông Nam Á cho các Quốc Gia Đông Nam Á

Chúng tôi xin cám ơn sự quan tâm của Tổng Thống về vấn đề này.

Kính thư

Thay mặt Ủy Ban Luật Gia Bảo Vệ Dân Quyền
Luật Sư Nguyễn Hữu Thống
Văn Thư này đã được thông tri đến Ngoại Trưởng Hoa Kỳ Hillary Rodham Clinton, Thủ Tướng Mã Lai Abdullah Ahmad Badawi và Thủ Tướng Anh David Cameron.

Hiện nay cả Mã Lai, Ấn Độ vá Úc Đại Lợi đã đứng vào chiến tuyến Bắc Cự Bá Quyền.














NGUYÊN BẢN ANH NGỮ


Nguyen Huu Thong, Esq.
The President
Lawyers Committee for People’s Rights

May 31, 2012

President Benigno S. Aquino III
C/o Philippine Consulate General
447 Sutter Street, Sixth Floor
San Francisco, CA 94108

Dear Mr. President:

On July 14, 1995, on behalf of the California Vietnamese Lawyers Association, Inc., I sent President Fidel Ramos of the Philippines a letter to urge him to submit the matter of the Southeast Asian Sea conflict to the International Tribunal for the Law of the Sea. Today with the recent event at Scarborough Shoal located in the Philippine exclusive economic zone and continental shelf, I would like to submit for your consideration the Spratly islands and maritime zone dispute.

In April 1956, when the French Navy withdrew from Vietnam after the conclusion of the Geneva Accords of 1954, China seized seven Paracel islands.

The remaining six islands were subsequently seized in January 1974 following the American pullout from Vietnam pursuant to the Paris Peace Treaty of 1973.

In March 1988, when the Soviets reduced their support to Vietnam, China seized seven islands in the Sparkly including the Fiery Cross Reef, the Gaven Reef and the Johnson Reef.

In August 1990, Chinese Prime Minister Li Peng offered to develop the whole region jointly with the Southeast Asian countries. However, China meant joint development of the entire South China Sea only after its sovereignty over the whole maritime area had been recognized.

In February 1992, China promulgated “The Law of the People’s Republic of China on Its Territorial Waters and Their Contiguous Areas”. China used to assert that “the islands of the South China Sea have always been Chinese territory and China has indisputable sovereignty over them.”  For that reason China seized at Vanguard Bank a tract called Wanan-Bei that China awarded to Crestone. That tract lies on Vietnam’s Exclusive Economic Zone 190 nautical miles from its territorial sea.

Furthermore, China stated that “the Paracel and Spratly islands have their own territorial waters or exclusive economic zones that would give China access to the seabed”. This allegation goes against Article 121 of the United Nations Convention on the Law of the Sea: “Rocks which cannot sustain human habitation or economic life of their own shall have no exclusive economic zone or continental shelf.” They have only a 12 nautical mile-territorial sea. This disposition should apply to all of the Paracel and Spratly islands.

In 1995, the incidents at Mischief Reef, Half Moon Shoal, Sabina Shoal and Jackson Bank on the Philippine continental shelf have threatened the security of the area and the freedom of navigation in the Southeast Asian Sea.

The "U Shaped" area of Nan Hai (South Sea) usually known as “the nine dashed line” or “Cow Tongue" claimed by China as its “historic waters" encompasses 80% of the Southeast Asian Sea, eastward to the Philippines, westward to Vietnam and southward to Malaysia, the farthest spot having a distance of 1,100 nautical miles from China. By doing so, China has considered the South China Sea as its "internal waters", the same way that the Roman Empire called the Mediterranean Sea "Mare Nostrum" (Our Sea).

By international law, pursuant to Article 57 of the United Nations Convention on the Law of the Sea (LOS Convention), all coastal States have been granted exclusive fishing rights in their exclusive economic zones extending 200 nautical miles from their territorial seas.

Article 76 of the LOS Convention gives coastal states exclusive rights to drill for oil and gas in their continental shelves which comprise the seabed and subsoil of the submarine areas that extend throughout the natural prolongation of its land territory to the outer edge of the continental margin, or to a distance of 200 nautical miles from the territorial sea.

Article 77 of the LOS Convention gives sovereign and exclusive rights to the coastal States over the continental shelf:

The coastal State exercises over the continental shelf sovereign rights for the purpose of exploring it and exploiting its natural resources.

These rights are exclusive in the sense that if the coastal State does not explore the continental shelf or exploit its natural resources, no one may undertake these activities without the express consent of the coastal State.
The rights of the coastal State over the continental shelf do not depend on occupation, effective or notional, or on any express proclamation.

Concerning the drilling on the continental shelf, Article 81 of the LOS Convention provides that “the coastal State shall have the exclusive right to authorize and regulate drilling on the continental shelf for all purposes”.

Pursuant to Articles 88 and 89 of the LOS Convention “the high seas shall be reserved for peaceful purposes. No State may validly purport to subject any part of the high seas to its sovereignty”. Therefore, China could not claim its sovereignty over the high seas or the open waters of sea beyond the limits of its zone of national jurisdiction with its 12 nautical mile-territorial sea and 200 nautical mile- exclusive economic zone or legal continental shelf. In the Southeast Asian Sea (South China Sea) China does not have any geological continental shelf extending beyond 200 nautical miles.
 
Scarborough Shoal of the Philippines and Vanguard Bank of Vietnam, both located over six hundred nautical miles from China, are its high seas. 

The Rule Pacta Sunt Servanda applies for the observance of treaties.

Article 26 of the Vienna Convention on the Law of Treaties (1969) declares that “every treaty in force is binding upon the parties to it and must be performed by them in good faith”. The United Nations International Law Commission in its commentaries to this rule characterized it as a “fundamental principle of the law of treaties, perhaps the most important principle of international law”.

According to the Rule of Supremacy of International Law the rights and obligations which a state has by international law are, from the international standpoint, superior to any rights or duties it may have under its domestic law.  Article 27 of the Vienna Convention provides that “a party may not invoke the provisions of its internal law as justification for its failure to perform a treaty”. That failure to perform would constitute a breach of the international law requesting remedies with provisional measures in case the urgency of the situation required it.

Therefore, China should not invoke its domestic Law of the Sea of 1992 to encroach upon the Vietnamese, Philippine and Malaysian Continental Shelves and the whole Spratly and Parcel archipelagoes. These violations of the Law of the Sea should be submitted to the International Court of Justice (ICJ) or the International Tribunal for the Law of the Sea (ITLOS) for the resolution of disputes in case the parties do not reach an agreement by negotiation and conciliation. The International Court /Tribunal has jurisdiction over the matters relating to the interpretation or application of the LOS Convention.

The settlement of these disputes by peaceful means such as negotiations, arbitrations and judicial proceeds would keep Southeast Asia from becoming another Middle East. With the Rule of Law taking the place of the use of force, Southeast Asia may soon experience a period of peace, stability, cooperation and prosperity.

I would like to seize this opportunity to propose that you change the name South China Sea to Southeast Asian Sea. The appellation of South Sea (Nan Hai) is good only for China; the Vietnam East Sea (Vietnam Dong Hai) applies to Vietnam. For Malaysia it should be called Malaysia North Sea.  The Philippines have adopted the correct name of Philippines West Sea in accord with the suggestions in my letter of July 14, 1995 to President Fidel Ramos.

Moreover, the name South China Sea could be interpreted erroneously as the Sea of China in the South.

Let us give to Caesar what belongs to Caesar, and give Southeast Asian Sea to the Southeast Asian countries.

Thank you for your attention to this matter.
Yours sincerely,
For the Lawyers Committee for People’s Rights
The President
NGUYEN HUU THONG, Esq.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét