Thứ Sáu, 29 tháng 11, 2019

Cụm Tình Báo VC A.22 Trong Dinh Độc Lập Trúc Giang

Trúc Giang
(Văn Hóa Vụ)
image022 
Cụm Tình Báo VC A.22 Trong Dinh Độc Lập.
1-ĐỊNH NGHĨA:
Tình báo, gián điệp là người hoạt động bí mật của phe địch để dọ thám lấy tin tức về tình hình quân sự, chính trị, kinh tế hoặc tác động, phá hoại.
2- GIÁN ĐIỆP CỘNG SẢN TRONG CHIẾN TRANH VIỆT NAM
Trong chiến tranh, ở miền Nam, ngoài những tên VC nằm vùng, còn có những điệp viên thuộc tình báo chiến lược như Phạm Xuân Ẩn, Vũ Ngọc Nhạ, Huỳnh Văn Trọng, Lê Hữu Thuý và Phạm Ngọc Thảo.
image023
2.1. VŨ NGỌC NHẠ
Vũ Ngọc Nhạ là nhân vật then chốt trong vụ án Cụm Tình Báo A.22 làm rung động chính quyền miền Nam năm 1969.
Tên thật là Vũ Xuân Nhã, sinh ngày 30-3-1928 tại tỉnh Thái Bình. Được kết nạp vào đảng CSVN năm 1947. Vũ Ngọc Nhạ còn nhiều cái tên khác nữa như Pière Vũ Ngọc Nhạ (tên Thánh), Vũ Đình Long (Hai Long) bí danh Lê Quang Kép, Thầy Bốn, “Ông Cố Vấn”.
2.1.1. Hoạt động
Năm 1955. Xuống tàu di cư vào Nam.
Vũ Ngọc Nhạ cùng 1 số điệp viên khác trà trộn vào đoàn người di cư vào Nam. Nhạ cùng vợ và con gái xuống tàu Hải Quân Pháp cùng hàng triệu người Công giáo di cư vào Nam.
- Làm thư ký đánh máy ở Bộ Công Chánh. Chinh phục được cảm tình của Linh mục Hoàng Quỳnh và trở thành “Người giúp việc” của Giám mục Lê Hữu Từ. ------>( thang le huu tu la mot thang cong san nup lum)
Năm 1958- Tháng 12 năm 1958, Nhạ bị Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung của Nguyễn Tư Thái, tự Thái Đen, bắt giữ và giam tại trại Tòa Khâm (Huế) để chờ điều tra xác minh. Linh mục Hoàng Quỳnh can thiệp cho nên Nhạ không bị buộc tội.
2.1.2 .Người Giúp Việc của Đức Cha Lê Hữu Từ 

Một khuyết điểm lớn của Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung là giam giữ những nghi can gián điệp chung với nhau tại trại Tòa Khâm. Chính ở đó, Vũ Ngọc Nhạ đã móc nối với các “cơ sở” (những cá nhân) tình báo khác, đặc biệt là trùm tình báo VC Mười Hương.
Tạo dựng niềm tin đối với Ngô Đình Cẩn.---->  (thang ngo dinh can ngu nguc choi voi thang cong san vu ngoc nha)
Năm 1959- Vũ Ngọc Nhạ làm tờ trình “Bốn Nguy Cơ Đe Doạ Chế Độ” được sự chú ý của Ngô Đình Cẩn và sau đó, của ông Nhu, ông Diệm. Do sự dự đoán chính xác về cuộc đảo chánh 11-11-1960 của tướng Nguyễn Chánh Thi, anh em ông Diệm đã chú ý đến Vũ Ngọc Nhạ.
Nhờ danh nghĩa “Người Giúp Việc” của Đức Cha Lê Hữu Từ mà Nhạ được xử dụng như là Người Liên Lạc giữa anh em Họ Ngô và giới Công Giáo di cư. Nhờ đó, Nhạ thu thập được nhiều tin tức tình báo có giá trị. Từ đó, Nhạ có biệt danh là “Ông Cố Vấn”.   (cong giao cho de viet cong)
2.1.3. Xây dựng Cụm Tình Báo Chiến Lược A.22
Sau đảo chánh 1-11-1963, thế lực Công giáo phát triển mạnh dưới tay của Linh mục Hoàng Quỳnh.
Cuối năm 1965, sự tranh giành quyền lực trong “nhóm tướng trẻ”, do sự giới thiệu của LM Hoàng Quỳnh, Tướng Nguyễn Văn Thiệu đã xử dụng Vũ Ngọc Nhạ trong vai trò liên lạc giữa tướng Thiệu và Khối Công giáo. Nhạ đã khéo léo lợi dụng vai trò đó để tạo ảnh hưởng đến các chính trị gia dân sự và quân sự.
Năm 1967- Sau khi tướng Nguyễn Văn Thiệu đắc cử Tổng thống, cấp trên nhận thấy cần thiết phải mở rộng mạng lưới tình báo, thành lập Cụm A.22(A.22 là mật danh của Vũ Ngọc Nhạ) Cụm do Nguyễn Văn Lê làm cụm trưởng, Nhạ làm Cụm Phó trực tiếp phụ trách mạng lưới. Toàn bộ Cụm A.22 được đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Nguyễn Đức Trí, chỉ huy phó Tình Báo Quân Sự ở miền Nam.
Bắt đầu, Cụm A.22 “phát triển” thêm Nguyễn Xuân Hoè, Vũ Hữu Ruật đều là những điệp viên mà Nhạ đã bắt liên lạc trong khi bị giam chung tại Tòa Khâm. Sau đó, thu nhận thêm Nguyễn Xuân Đồng và quan trọng nhất là vào đầu năm 1967, bổ sung thêm Lê Hữu Thuý (hay Thắng) mật danh là A.25.
Các điệp viên nầy được giao nhiệm vụ “Chui sâu, leo cao” nắm lấy những chức vụ quan trọng để thu thập thông tin và để tác động vào chính quyền.
Thành công của Cụm A.22 là cài được 1 điệp viên dưới quyền của Lê Hữu Thuý là Huỳnh Văn Trọng làm “Cố Vấn” cho tổng thống Thiệu.
Chính Huỳnh Văn Trọng đã cầm đầu một phái đoàn VNCH sang HK, tiếp xúc, gặp gỡ hàng loạt các tổ chức, các cá nhân trong chính phủ và chính giới HK, để thăm dò thái độ của chính phủ Johnson đối với cuộc chiến ở VN. Huỳnh Văn Trọng thu thập được nhiều tin tức tình báo chiếnlược.   (o viet cong la day ne chung may, lu cong giao ngu nguc, gap lua bo tay nguoi)
image024 
 2.1.4. Vụ án Huỳnh Văn Trọng và 42 điệp báo
CIA nhanh chóng phát hiện điều bất thường là sự tập hợp của các cá nhân là những bị can đã bị bắt giam ở Tòa Khâm.
Giữa năm 1968- Hồ sơ các cựu tù nhân ở Tòa Khâm được mở lại. Do tính phức tạp trong ngành điệp báo, CIA phải mất 1 năm mới hoàn tất hồ sơ và chuyển giao cho Tổng Nha Cảnh Sát QG VNCH.
Vào trung tuần tháng 7 năm 1969, một đơn vị đặc biệt có mật danh là S2/B được thành lập để tiến hành bắt giữ hầu hết những người của Cụm A.22.
Toàn bộ điệp viên Vũ Ngọc Nhạ, Lê Hữu Thuý, Vũ Hữu Ruật, Nguyễn Xuân Hoè, Nguyễn Xuân Đồng, Huỳnh Văn Trọng, và hầu hết những gián điệp khác, kể cả giao liên là bà Cả Nhiễm cũng bị bắt.
Riêng cụm trưởng Nguyễn Văn Lê kịp thời trốn thoát.
Cụm tình báo A.22 bị phá vở hoàn toàn.
Chính quyền Saigon rung động vì 42 gián điệp từ cơ quan đầu nảo là Phủ tổng thống cho đến các cơ quan khác, nhất là 1 “Cố vấn” của tổng thống đã bị bắt.
2.1.5. Biến vụ án gián điệp thành vụ án chính trị
Đây là vụ án gián điệp lớn nhất lịch sử. Các bị can đều khai, nhất cử nhất động của họ đều là thi hành chỉ thị, là do sự uỷ thác, do lịnh của tổng thống, của các tổng trưởng, nghị sĩ, dân biểu và cả CIA nữa.
Tòa án Quân Sự Mặt Trận Lưu Động Vùng 3 CT bối rối vì không có thể gởi trác đòi những nhân chứng như tổng thống ra hầu tòa để đối chất.
Do không có đủ yếu tố để buộc tội tử hình, cho nên tòa tuyên án:
- Chung thân khổ sai: Vũ Ngọc Nhạ, Lê Hữu Thuý, Huỳnh Văn Trọng, Nguyễn Xuân Hoè.
- Án từ 5 năm đến 20 năm tù khổ sai cho những bị can còn lại.
Khi quân cảnh dẫn các tù nhân ra xe bít bùng, thì Vũ Ngọc Nhạ quay sang nhóm ký giả ngoại quốc và thân nhân, nói lớn “Tôi gởi lời thăm ông Thiệu”.
2.1.6. Cho rằng CIA dàn cảnh
Một bất ngờ của vụ án là TT Thiệu không tin đó là sự thật mà cho là CIA đã dàn cảnh. Do đó, thời gian Vũ Ngọc Nhạ bị đày ở Côn Đảo thì TT Thiệu đã triệu hồi viên tỉnh trưởng Côn Sơn về Saigon và thay thế vào đó một người thân tín của mình để có điều kiện chăm sóc cho Vũ Ngọc Nhạ và Huỳnh Văn Trọng như là những thượng khách. Vì thế, Vũ Ngọc Nhạ đã đánh giá:”Đó là một cuộc dạo chơi trên Thiên Đàng”.
2.1.7. Tiếp tục hoạt động
Đầu năm 1973- Vũ Ngọc Nhạ và Huỳnh Văn Trọng được đưa về khám Chí Hòa, Saigon. Trong thời gian ở Chí Hòa, nhờ sự giúp đở của LM Hoàng Quỳnh, Vũ Ngọc Nhạ móc nối, bắt bắt liên lạc với nhóm “Thành Phần Thứ 3″ của Dương Văn Minh.
Ngày 23-7-1973- Chính quyền VNCH trao trả Vũ Ngọc Nhạ cho Mặt Trận DTGP/MNVN với danh xưng là “Linh mục Giải Phóng”.
Năm 1974- Vũ Ngọc Nhạ được CSBV phong Trung tá QĐNDVN. Tháng 4, 1974, Vũ Ngọc Nhạ trở về Củ Chi, hoạt động bí mật mục đích xây dựng lại Cụm Tình báo chiến lược, móc nối với Thành phần thứ 3 và khối Công giáo .
image025 
Ngày 30-4-1975- Vũ Ngọc Nhạ có mặt tại Dinh Độc Lập bên cạnh tướng Dương Văn Minh.
2.1.8. Bị thất sủng và được tôn vinh
Ngày 30-4-1975 thân phận của Vũ Ngọc Nhạ vẫn chưa được xác nhận. ------>-(no la thang cong giao diem thui)

Năm 1976- Vũ Ngọc Nhạ được điều về Cục 2 Bộ Quốc Phòng với quân hàm Thượng tá.
Năm 1981- Được thăng Đại tá nhưng vẫn còn ngồi chơi xơi nước. Hàng ngày đọc các tin tức báo cáo, tổng hợp lại rồi trình lên thượng cấp, Phạm Văn Đồng, Mai Chí Thọ, Nguyễn Văn Linh.
Năm 1987- Tác giả Hữu Mai xuất bản cuốn tiểu thuyết “Ông Cố Vấn, Hồ Sơ Một Điệp Viên” ca ngợi thành tích tình báo của Vũ Ngọc Nhạ. Công chúng đã biết đến và Nhạ được phong Thiếu Tướng.
Vũ Ngọc Nhạ mất ngày 7-8-2002 tại Saigon, 75 tuổi. Phần mộ của Nhạ nằm chung với các phần mộ của các điệp viên khác như Phạm Xuân Ẩn, Đặng Trần Đức và Phạm Ngọc Thảo.

image026
2.2. PHẠM XUÂN ẨN
* Thân thế Và Hoạt động
Phạm Xuân Ẩn sinh ngày 12-9-1927 tại xã Bình Trước, Biên Hòa, là một thiếu tướng tình báo của QĐNDVN.
Từng là nhà báo. Phóng viên cho Reuters, tạp chí Time, New York Herald Tribune, The Christian Science Monitor.
Theo học trường Collège de Can Tho.
Năm 1948- Tham gia Thanh Niên Tiền Phong và sau đó, làm thơ ký cho hãng dầu lửa Caltex.
Năm 1950- Làm nhân viên Sở Quan Thuế Saigon để thi hành nhiệm vụ là tìm hiểu tình hình vận chuyển hàng hóa, khí tài quân sự từ Pháp sang VN. Đây là lần đầu tiên làm nhiệm vụ tình báo cùng với 14 ngàn gián điệp được cài cắm vào hoạt động.
Năm 1952- Phạm Xuân Ẩn ra Chiến Khu D và đã được bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, Ủu viên Uỷ Ban Hành Chánh Nam Bộ giao cho nhiệm vụ làm tình báo chiến lược.
Năm 1953- Phạm Xuân Ẩn được Lê Đức Thọ kết nạp vào đảng tại rừng U Minh, Cà Mau.
Năm 1954- Phạm Xuân Ẩn bị gọi nhập ngũ và được trưng dụng ngay vào làm thư ký Phòng Chiến Tranh Tâm Lý Bộ Tổng Hành Dinh Liên Hiệp Pháp tại Camps Aux Mares (Thành Ô Ma) Tại đây, Ẩn được quen biết với Đại tá Edward Landsdale, trưởng phái bộ đặc biệt của Mỹ (SMM), trên thực tế, Landsdale là người chỉ huy CIA tại Đông Dương. cũng là trưởng phái đoàn viện trợ quân sự Mỹ (US.MAAG) tại Saigon.
image027 
Năm 1955- Theo đề nghị của Phái Bộ Cố Vấn Quân Sự Mỹ, Phạm Xuân Ẩn tham gia soạn thảo tài liệu tham mưu, tổ chức, tác chiến, huấn luyện, hậu cần cho quân đội. Tham gia thành lập cái khung của 6 sư đoàn đầu tiên của QLVNCH, mà nồng cốt là sĩ quan, hạ sĩ quan, binh sĩ người Việt trong quân đội Pháp trước đó.
Phạm Xuân Ẩn còn được giao nhiệm vụ hợp tác với Mỹ để chọn lựa những sĩ quan trẻ có triển vọng đưa sang Mỹ đào tạo, trong số đó có Nguyễn Văn Thiệu, sau nầy trở thành tổng thống VNCH.
Năm 1957- Tháng 10 năm 1957, Mai Chí Thọ và Trần Quốc Hương (Mười Hương) chỉ đạo cho Phạm Xuân Ẩn qua Mỹ du học ngành báo chí để có cơ hội đi khắp nơi, tiếp cận với những nhân vật có quyền lực nhất.
Năm 1959- Phạm Xuân Ẩn về nước, nhờ những mối quan hệ, Ẩn được bác sĩ Trần Kim Tuyến, giám đốc Sở Nghiên Cứu Chính Trị Và Văn Hóa Xã Hội (Thực chất là cơ quan mật vụ của Phủ tổng thống), biệt phái sang làm việc tại Việt Tấn Xã, phụ trách những phóng viên ngoại quốc làm việc ở đó.
Năm 1960- Từ năm 1960 đến giữa 1964, Phạm Xuân Ẩn làm việc cho hảng thông tấn Reuters. Từ 65 đến 67, Ẩn là người Việt duy nhất và chính thức làm việc cho tuần báo Time. Ngoài ra, còn cộng tác với báo The Christian Science Monitor…
Từ 1959 đến 1975- Với cái vỏ bọc là phóng viên, nhờ quan hệ rộng với các sĩ quan cao cấp, với các nhân viên tình báo, an ninh quân đội và với cả CIA , Ẩn đã thu thập được nhiều tin tức quan trọng từ quân đội, cảnh sát và các cơ quan tình báo.
Những tin tức tình báo chiến lược của Ẩn đã được gởi ra Hà Nội thông qua Trung Ương Cục Miền Nam. Tài liệu sống động và tĩ mỉ khiến cho Võ Nguyên Giáp đã reo lên “Chúng ta đang ở trong Phòng Hành Quân của Hoa Kỳ”.
Tổng cộng, Ẩn đã gởi về Hà Nội 498 tài liệu gốc được sao chụp.
Giai Đoạn 1973-1975- Hàng trăm bản văn nguyên bản đã phục vụ “Hạ Quyết Tâm Giải Phóng Miền Nam ” của đảng CSVN.
Phạm Xuân Ẩn là nhân vật được chèo kéo của nhiều cơ quan tình báo, kể cả CIA .
Ngày 30-4-1975, Phạm Xuân Ẩn là một trong những nhà báo chứng kiến cảnh xe tăng của VC húc đỗ cổng Dinh Độc Lâp. Từ đó cho đến vài tháng sau, các phóng viên, đồng bào và cả chính quyền mới cũng chưa biết Phạm Xuân Ẩn là một điệp viên Cộng sản.
Vợ con của Phạm Xuân Ẩn đã di tản sang Hoa Kỳ. Ẩn cũng được lịnh của cấp trên sang HK để tiếp tục hoạt động tình báo. Nhưng Ẩn đã xin ngưng công tác vì đã hoàn thành nhiệm vụ.
Do kế hoạch thay đổi, cho nên mãi 1 năm sau, vợ con của Ẩn mới có thể quay về VN bằng đường vòng Paris, Moskva, Hà Nội, Saigon.
* Sau chiến tranh
image028 
Ngày 15-1-1976, trung tá “Trần Văn Trung”, tức Phạm Xuân Ẩn, được phong tặng “Anh Hùng Lực Lượng Vũ Trang”.
Tháng 8 năm 1978, Ẩn ra Hà Nội dự khóa học tập chính trị 10 tháng vì Ẩn “sống quá lâu trong lòng địch”.
Theo Larry Berman thì Ẩn bị nghi kỵ và bị quản chế tại gia. Cấm liên lạc với báo chí ngoại quốc và cấm xuất cảnh, do cách suy nghĩ của Ẩn quá “Mỹ” và do Ẩn đã giúp bác sĩ Trần Kim Tuyến ra khỏi VN ngày 30-4-1975 .
Năm 1986- Trong 10 năm, luôn luôn có 1 công an làm nhiệm vụ canh gác trước nhà của Phạm Xuân Ẩn.
Năm 1990- Đại tá Phạm Xuân Ẩn được thăng thiếu tướng.
Năm 1997- Chánh phủ VNCS từ chối không cho Ẩn đi Hoa Kỳ để dự hội nghị tại New York mà Ẩn được mời với tư cách là khách mời đặc biệt.
Năm 2002- Phạm Xuân Ẩn về nghỉ hưu.
Con trai lớn của Ẩn là Phạm Xuân Hoàng Ân, đã du học Mỹ, hiện đang làm việc tại Bộ Ngoại Giao ở Hà Nội. Con gái của Ẩn hiện đang sống ở Hoa Kỳ.
* Thất Vọng
Trong những năm cuối đời, Phạm Xuân Ẩn cảm thấy rất thất vọng vì dân chúng không được viết tự do. Ẩn trối trăn trước khi chết là, “đừng chôn ông gần những người Cộng Sản”.
* Nhận định về Phạm Xuân Ẩn.
Lê Duẩn: Đã biểu dương Phạm Xuân Ẩn coi đó là 1 chiến công có tầm cỡ quốc tế.
Frank Snepp, cựu chuyên viên thẩm vấn CIA , tác giả cuốn sách Decent Interval (Khoảng cách thích đáng) nói:”Phạm Xuân Ẩn đã có được nguồn tin tình báo chiến lược, điều đó rõ ràng, nhựng chưa ai “Dẫn con mèo đi ngược” để thực hiện 1 cuộc xét nghiệm pháp y về các tác hại mà ông đã gây ra, Cơ quan CIA không có gan để làm việc đó.” Hết trích.
Murrray Gart, thông tín viên trưởng của báo Time nói “Thằng chó đẻ ấy, tôi muốn giết nó“.

2.3. PHẠM NGỌC THẢO
image029 
2.3.1. Thân thế
Phạm Ngọc Thảo sanh ngày 14-2-1922 tại Sàigon. Cha ông là Phạm Ngọc Thuần, một địa chủ lớn, có quốc tịch Pháp, người Công giáo.. Còn có tên là Albert Thảo hoặc 9 Thảo, vì Thảo là con thứ 8 trong gia đình.
Sau khi đậu tú tài, Thảo ra Hà Nội học và tốt nghiệp kỹ sư công chánh.
Thảo tuyên bố bỏ quốc tịch Pháp và tham gia kháng chiến.
2.3.2. Hoạt động VC
Sau khi tốt nghiệp trường Võ Bị Trần Quốc Tuấn, Thảo về nhận nhiệm vụ giao liên ở Phú Yên. Một lần, Thảo đưa 1 cán bộ về Nam Bộ. Đó Là Lê Duẩn, người đã có ảnh hưởng lớn về hoạt động tình báo của Thảo sau nầy.
Được bổ làm Tiểu đoàn trưởng TĐ 410, quân khu 9. (Có tài liệu nói là TĐ 404 hoặc 307). Trong thời gian nầy, Thảo hướng dẫn chiến tranh du kích cho Trần Văn Đôn, Nguyễn Khánh, Lê Văn Kim, những người sau nầy trở thành tướng lãnh của QLVNCH.
Vợ là Phạm Thị Nhậm, em ruột giáo sư Phạm Thiều, nguyên đại sứ tại Tiệp Khắc.
2..3.3. Hoạt động tình báo
Sau Hiệp Định Genève, Lê Duẩn chỉ thị cho Phạm Ngọc Thảo không được tập kết ra Bắc phải ở lại để hình thành Lực lượng thứ 3..
Từ đó, Thảo dạy học ở một số tư thục Saigon.
Phạm Ngọc Thảo đã bị Đại tá Mai Hữu Xuân, Giám Đốc An Ninh Quân Đội, lùng bắt nhiều lần nhưng đều trốn thoát. Sau cùng, Thảo về Vĩnh Long làm nghề dạy học. Tỉnh nầy thuộc địa phận của Giám mục Phêrô Ngô Đình Thục, vốn đã quen biết với gia đình Thảo từ trước. Ngô Đình Thục coi Phạm Ngọc Thảo như con nuôi và bảo lãnh cho vào dạy học ở trường Nguyễn Trường Tộ.
Năm 1956- Phạm Ngọc Thảo được phép đưa vợ con về Saigon và vào làm việc ở Ngân Hàng QG. Rồi được chuyển ngạch sang quân đội với cấp bậc Đại uý “Đồng Hóa”.
Năm 1956- Do sự giới thiệu của Huỳnh Văn Lang, Tổng Giám đốc Viện Hối Đoái, Bí thư Liên Kỳ Bộ của đảng Cần Lao, Phạm Ngọc Thảo được cử đi học khóa Nhân Vị ở Vĩnh Long. Và Thảo đã gia nhập đảng Cần Lao. (toan la cong giao gia nhap vo cai dang khon nan nay)

image030 2.3.4. Hoạt động trong Quân Lực VNCH
- Chức vụ Tỉnh Đoàn Trưởng Bảo An Vĩnh Long.
- Tuyên Huấn đảng Cần Lao Nhân Vị.
Thảo biết cách khai thác nghề viết báo của mình và về Binh pháp Tôn Tử. Chỉ trong vòng một năm, Thảo đã viết 20 bài báo nói về chiến lược, chiến thuật, nghệ thuật lãnh đạo chỉ huy, huấn luyện quân sự, phân tích binh pháp Tôn Tử, Trần Hưng Đạo. Những bài báo được giới quân sự chú ý và cả TT Diệm và Ngô Đình Nhu.
Năm 1957- Phạm Ngọc Thảo được chuyển về Phòng Nghiên Cứu Chính Trị Phủ Tổng thống với cấp bậc thiếu tá. Sau đó, giữ chức Tỉnh Đoàn trưởng Bảo An Bình Dương.
Năm 1960- Phạm Ngọc Thảo tham dự khóa Chỉ Huy Tham Mưu ở Đà Lạt. Giữ chức vụ Thanh Tra Khu Trù Mật.
Năm 1961- Phạm Ngọc Thảo được thăng trung tá, giữ chức Tỉnh trưởng Kiến Hòa để trắc nghiệm chương trình bình định. Thời gian nầy, Kiến Hòa (Bến Tre) trở nên ổn định không còn phục kích hay phá hoại nữa.
Tuy nhiên có nhiều tố cáo Thảo là Cộng sản nằm vùng. Thảo bị ngưng chức tỉnh trưởng Kiến Hòa và đi học khóa Chỉ Huy Tham Mưu ở Hoa Kỳ.
Lý do là, Thảo đã thả hơn 2000 tù nhân đã bị giam giữ và liên lạc với bà Nguyễn Thị Định.

2.3..5. Tham gia các cuộc đảo chánh
* Đảo chánh lần thứ nhất, 1963
Tháng 9 năm 1963, bác sĩ Trần Kim Tuyến, nguyên Giám Đốc Sở Nghiên Cứu Chính Trị (Thực chất là trùm mật vụ) và Phạm Ngọc Thảo âm mưu 1 cuộc đảo chánh Ngô Đình Diệm.
Phạm Ngọc Thảo đã kêu gọi được một số đơn vị như Quân Đoàn 3, Quân Đoàn 4, Biệt Động Quân, Bảo An sẵn sàng tham gia. Nhưng âm mưu bị nghi ngờ. Trần Kim Tuyến bị đưa đi làm Tổng Lãnh Sự ở Ai Cập.
Sau ngày đảo chánh 1-11-1963 , Đệ Nhất Cộng Hòa sụp đỗ. Phạm Ngọc Thảo thăng chức Đại tá làm Tuỳ Viên báo chí trong Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng. Một thời gian sau, được cử làm Tuỳ viên Văn hóa tại Tòa đại sứ VNCH ở Hoa Kỳ.
* Đảo chánh lần thứ hai năm 1965
Đầu năm 1965, Phạm Ngọc Thảo bị gọi về nước vì Nguyễn Khánh muốn bắt Thảo. Vì thế, khi về đến phi trường Tân Sơn Nhất, Thảo đào nhiệm, bỏ trốn và bí mật liên lạc với các lực lượng đối lập để tổ chức đảo chánh.
Đảo chánh với lý do rất quan trọng mà Thảo nắm được là Nguyễn Khánh và Hoa Kỳ thỏa thuận sẽ ném bom xuống miền Bắc vào ngày 20-2-1965 Vì vậy phải đảo chánh lật Nguyễn Khánh vào ngày 19-2-1965 .

Ngày 19-2-1965: Phạm Ngọc Thảo và Tướng Lâm Văn Phát đem quân và xe tăng vào chiếm trại Lê Văn Duyệt, đài phát thanh Saigon, bến Bạch Đằng và phi trường Tân Sơn Nhất. Tướng Nguyễn Khánh đào thoát bằng máy bay ra Vũng Tàu.

Ngày 20-2-1965: Hội Đồng các tướng lãnh họp tại Biên Hòa các tướng cử Nguyễn Chánh Thi làm chỉ huy chống lại đảo chánh. Nguyễn Chánh Thi ra lịnh cho Phạm Ngọc Thảo, Lâm Văn Phát và 13 sĩ quan khác phải ra trình diện trong 24 giờ.

Ngày 21-2-1965:Các tướng tiếp tục họp tại Biên Hòa quyết định giải nhiệm Nguyễn Khánh và cử tướng Trần Văn Minh làm Tổng Tư Lệnh QLVNCH.

Ngày 22-2-1965: Quốc trưởng Phan Khắc Sửu ký sắc lịnh bổ nhiệm tướng Nguyễn Khánh làm Đại sứ lưu động. (Một hình thức trục xuất ra khỏi nước)

Ngày 25-2-1965: Nguyễn Khánh rời Việt Nam. Phạm Ngọc Thảo bỏ trốn.

2.3.6. Bị bắt và qua đời

Ngày 11-6-1965: Quốc trưởng Phan Khắc Sửu và Thủ tướng Phan Huy Quát tuyên bố trả quyền lãnh đạo quốc gia lại cho Quân đội.
Ngày 14-6-1965: Uỷ Ban Lãnh Đạo Quốc Gia được thành lập do tướng Nguyễn Văn Thiệu làm Chủ tịch.
Phạm Ngọc Thảo phải rút vào hoạt động bí mật. Thảo cho xuất bản tờ báo Việt Tiến mỗi ngày phát hành 50,000 tờ, tuyên truyền tinh thần yêu nước chống Mỹ và Thiệu.
Phạm Ngọc Thảo có 1 hàng rào bảo vệ rộng lớn từ các Xứ Đạo Biên Hòa, Hố Nai, Thủ Đức, Saigon. Có nhiều linh mục giúp đở in ấn và phát hành.. Chính quyền Thiệu-Kỳ kết án tử hình và treo giải thưởng 3 triệu đồng cho ai bắt được Thảo.

Võ Văn Kiệt (Sáu Dân) kể lại“Tôi thấy Thảo gặp khó khăn nên đi tìm anh để đưa về chiến khu, nhưng anh bảo vẫn còn khả năng đảo chánh để ngăn chận việc đế quốc Mỹ đưa quân viễn chinh vào miền Nam”. (Võ Văn Kiệt)
Lâm Văn Phát ra trình diện và chỉ bị cách chức..
Phạm Ngọc Thảo phải trốn nhiều nơi, cuối cùng bị bắt tại Đan Viện Phước Lý, xã Vĩnh Thanh, quận Nhơn Trạch, Biên Hòa.
Lúc 3 giờ sáng ngày 16-7-1965, Thảo vừa ra khỏi Đan Viện Phước Lý thì bị An ninh Quân Đội phục kích bắt và đưa về 1 con suối nhỏ gần Biên Hòa để thủ tiêu. Tuy nhiên, Thảo không chết, chỉ bị ngất xĩu vì đạn trúng vào càm. Khi tĩnh dậy, Thảo lê lết về một nhà thờ và được Linh mục Cường, Cha Tuyên Uý của Dòng Nữ Tu Đa Minh cứu chữa.
Và Thảo bị phát giác, bị đưa về Cục An Ninh QĐ đường Nguyễn Bĩnh Khiêm. Thảo bị tra tấn cho đến chết vào đêm 17-7-1965. 43 tuổi.
Theo Larry Berman trong cuốnÓi>”Perfect Spy” thì TT Thiệu ra lịnh tra tấn và hành hạ Thảo cho thật đau đớn bằng cách dùng 1 cái thòng lọng bằng da, buộc quanh cổ và 1 cái khác thì siết mạnh nơi tinh hoàn. Cũng có tin nói rằng Đại uý Hùng Sùi bóp dái Thảo cho đến chết.
Phạm Ngọc Thảo có 7 con và vợ Thảo đi dạy hoc. Tất cả hiện đang sinh sống ở Hoa Kỳ. Có người con là bác sĩ ở Quận Cam, Cali.
Phạm Ngọc Thảo là 1 điệp viên đơn tuyến. Không có thượng cấp và thuộc cấp. Không thu thập tin tức mà chỉ tác động vào chính quyền.
Nhà nước CSVN truy tặng Thảo danh hiệu Liệt sĩ và quân hàm Đại tá QĐNDVN.
Cũng có nguồn tin cho rằng Phạm Ngọc Thảo là 1 gián điệp nhị trùng, nghĩa là làm việc cho CIA nữa.

image033 image034 
image035 image036
image037 image038 


On Thursday, November 28, 2019, 02:06:36 PM PST, sylvia le sylvia8253@yahoo.com [DiendanDanToc] <diendandantoc@yahoogroups.com> wrote:



Tụi bay có hay thì đi tìm mấy thằng quạ đen, linh mục cộng sản tiếp tay với cộng sản đi, dám không, tụi bây không dám thì để tao lôi ra mấy con quạ đen nầy ra nha. Dịt mẹ, chuyện bây giờ đeo nói. Suốt ngày bới móc mấy ông thầy tu ra..... tiếc quá huh các chiên chó.... Nó là như thế đó, mọi chuyện đề là duyên phận. chúng mày có gào than khóc lóc thì nó đã như vậy rồi đó.... Mày tưởng làm như vậy để sự ganh ghét đố kỵ của chúng mày thỏa mãn hay sao. kakakak.... 

Tao sẽ mang vài thằng quạ đen, mấy con chó mực lên đây nha. Chờ tao

Những con chó mực này cũng ghê gớm không kém đâu.







On Thursday, November 28, 2019, 01:44:43 PM PST, Nghiem Nguyen laomoc247@gmail.com [DiendanDanToc] <diendandantoc@yahoogroups.com> wrote:


 



---------- Forwarded message ---------
From: nguyenphuc lienthanh <nguyenphuclt1966@gmail.com>
Date: Thu, Nov 28, 2019 at 1:20 PM
Subject: TÊN TÌNH BÁO VC THÍCH MINH CHÂU
To: Liem Bui <liemhuubui@gmail.com>,


THƯỢNG TỌA THICH MINH CHÂU, VIỆN TRƯỞNG ĐẠI HỌC VẠN HẠNH KIÊM VIỆN TRƯỞNG HỌC VIỆN PGVNTH TẠI SÀI GÒN
HẮN CHÍNH LÀ TÊN CÁN BỘ TÌNH BÁO CỘNG SẢN CAO CẤP CỦA TỔNG CỤC 2 TÌNH BÁO CHIẾN LƯỢC CÔNG SẢN HÀ NỘI GỞI VÀO NAM HOẠT ĐÔNG TỪ NĂM 1964
                                                                Nguyễn phúc Liên Thành
Thích Trí Quang Thần Tượng Hay Tội Đồ Dân tôc
[Trang 566-577]
Tháng 11/28/2019
<image.png>
                      
<image.png>   


Những dữ kiện mà tôi trình bày cùng đồng bào dưới đây là những dữ kiện lịch sử khách quan. Tôi, Nguyễn Phúc Liên Thành, một Phật tử thuần thành có pháp danh là Nguyện Tịnh, Anh tôi là Đại Lão Hòa Thượng Thích Chơn Kim [đã viên tịch], anh ruột của Bà nội tôi là Đệ I Tăng Thống Thích Tịnh Khiết .Do đó, tôi không có lý do gì để đánh phá Phật giáo, như những người hoặc là mê muội hoặc đang phục vụ cho CSVN thường kết án tôi một cách vô căn cứ. Trái lại, tôi rất tôn trọng Phật giáo. Tôi chỉ vạch trần tội ác của những tên phản quốc mượn áo cà sa của Phật giáo để làm ô uế Phật giáo mà thôi.

Thích Minh Châu là một nhân vật có hành tung rất bí mật, một tên cán bộ tình báo của chính phủ Cộng sản Hà Nội được đưa vào miền nam Việt Nam qua tuyến đường Ấn Độ, tương tự như Thích Quảng Độ cũng đi vào miền nam bằng tuyến đường quốc gia Ấn Độ nầy.
Nhiệm vụ chính của Thích Minh Châu là điều khiển một trung tâm giáo dục tại Thủ đô miền nam với tên là Viện Đại học Vạn Hạnh. Đây là tên vỏ bọc và ngụy thức của một trung tâm đào tạo cán bộ Trí Thức Vận và  dấy loạn cho Cộng sản Hà Nội tại Sài Gòn, thủ đô của chính phủ VNCH. Tại trung tâm dấy loạn nầy, chính phủ Cộng sản Hà Nội đã tung ra những cuộc biến loạn dưới hình thức các cuộc đấu tranh, bạo loạn của quần chúng tại đô thị, đã tạo ra rất nhiều khó khăn cho nhiều chính phủ của nền Đệ II Việt Nam Cộng Hòa. Cuối cùng cũng tại nơi đây vào sau ngày 30/4/1975, Đại học Vạn Hạnh là trung tâm của Ủy ban Quân Quản dành cho Dân, Quân, Cán Chính VNCH trình diện để đi vào các trại tù cải tạo do tên Nguyễn Trực là một phụ tá đắc lực của Thích Minh Châu và Thích Trí Quang làm Trưởng Ban Tiếp Nhận.
Thích Minh Châu tên thật là Đinh Văn Nam, sinh ngày 20 tháng 10 năm 1918 và mất ngày 1 tháng 9 năm 2012, tại Sài Gòn, thọ 94 tuổi. Chánh quán: Làng Kim Khê, xã Nghi Long, Huyện Nghi Lộc Tỉnh Nghệ An. Sinh quán: Làng Kim Thành, tỉnh Quảng Nam. Cha là Đinh Văn Chấp, đậu Tiến sĩ dưới triều nhà Nguyễn. Mẹ là Lê Thị Đạt... Đinh Văn Nam là con thứ 3 trong gia đình có 8 anh em: Anh trưởng là Đinh Văn Kinh, Đinh Văn Quang, Đinh Văn Nam (tức Hòa Thượng Thích Minh Châu), Đinh Văn Linh, Đinh Văn Phong, Đinh Thị Kim Hoài, Đinh Thị Kim Thai, và Đinh Thị Khang. Đinh Văn Nam từng là học sinh trường Khải Định, Huế, tức trường Quốc Học sau nầy. Năm 1940, Đinh Văn Nam đậu Tú Tài Toàn Phần.
Cũng năm đó Đinh Văn Nam lập gia đình với cô Lê Thị Bé, con cụ Lê Văn Miến cùng làng. Vợ chồng Đinh Văn Nam sinh hạ được 2 con, người con trai đầu lòng tên là Đinh Văn Sương và người con gái là Đinh Thị Phương.
Năm 1943, Đinh Văn Nam trở lại Huế và làm thư ký (thừa phái) cho tòa Khâm Sứ của Pháp ở Huế. Theo hồ sơ văn khố của Pháp để lại tại Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Thừa Thiên Huế thì Hòa Thượng Thích Trí Độ, Giám Đốc Trường An Nam Phật Học tại Huế, gia nhập vào đảng Cộng sản vào năm 1941. Đinh Văn Nam và Võ Đình Cường gia nhập vào đảng Cộng sản vào năm 1943. Như vậy cho thấy Đinh Văn Nam gia nhập đảng Cộng sản tại Huế chứ không phải thời gian ở với vợ tại Nghệ An.
Vào tháng 8/1945, Việt Minh cướp chính quyền. Ông Đinh Văn Chất thân phụ của Đinh Văn Nam được Việt Minh mời giữ chức vụ Chủ Tịch Liên Việt Tỉnh Nghệ An. Như chúng ta đã biết cơ sở đầu tiên của Cộng sản Đông Dương được thiết lập là tại hai huyện Nam Đàn và Nghi Lộc tỉnh Nghệ An, giới sĩ phu theo đảng Cộng sản rất đông trong đó có Đinh Văn Nam.
Ngoài ra em ruột của Đinh Văn Nam là Đinh Văn Linh là Đại Tá trong Bộ đội Cộng sản Bắc Việt. Ngày 30/4/1975, Đinh Văn Linh là một trong những người được Cộng sản gởi vào tiếp thu Sài Gòn.
Tóm lại, Thích Minh Châu tức Đinh Văn Nam đã gia nhập Mặt Trận Việt Minh từ đầu thập niên 1940 và trở thành đảng viên Cộng sản vào năm 1943.
Vào khoảng gần cuối thập niên 1930, giới sĩ phu tại Bắc, Nam, Trung kỳ gia nhập Việt Nam Quang Phục Hội của Hoàng Thân Kỳ Ngoại Hầu Cường Để nổi lên chống đối thực dân Pháp khắp nơi. Phong trào này đã đẩy chính quyền bảo hộ Pháp vào tình trạng hết sức khó khăn và bọn thực dân Pháp gặp nguy hiểm trong việc đô hộ ba nước Việt, Miên, Lào. Toàn Quyền Pháp bấy giờ là Pasquier đã đưa ra một chính sách “Phong Trào Chấn Hưng Phật Giáo” và dùng phong trào nầy để để vô hiệu hóa các cuộc nổi dậy chống Pháp của giới sĩ phu đương thời, đồng thời dùng họ để chống lại quân đội Nhật. Cho nên chúng ta không ngạc nhiên khi các nhân vật trụ cột, đảng viên của đảng Cộng sản Đông Dương không bị chính quyền bảo hộ Pháp bắt bớ, thanh toán, mà ngược lại còn được Toàn Quyền Pháp Pasquier nâng đỡ, khuyến khích nhóm “Phong Trào Chấn Hưng Phật Giáo” của Bác sĩ Lê Đình Thám, Thích Trí Độ, Đinh Văn Nam tức Thích Minh Châu, Võ Đình Cường, Lê Dư, Trần Nguyên Chấn v.v… Nắm được yếu điểm nầy của Toàn Quyền Pháp Pasquier, và qua các nhân vật đảng viên Cộng sản Đông Dương kể trên, đảng Cộng sản Đông Dương đã dùng Phật Giáo để phát triển và xây dựng cơ sở đảng. 
Hồ sơ của Sở Liên Phóng Pháp cho thấy Bác sĩ Lê Đình Thám là đảng viên cao cấp của Cộng sản Đông Dương nhưng đồng thời cũng là tình báo viên của Sở Liên Phóng Pháp. Ông Lê Đình Thám được Sở Liên Phóng Pháp giao nhiệm vụ nằm vùng trong Phật Giáo tại Trung Kỳ.. Cũng theo tài liệu của Sở Liên Phóng Pháp, Bác Sĩ Lê Đình Thám sinh ngày 1 tháng 1 năm 1897 tại Tỉnh Quảng Nam, tốt nghiệp trường Cao đẳng Y Khoa Đông Dương tại Hà Nội. Ông thành lập hội An Nam Phật Học tại Huế, văn phòng đặt tại chùa Trúc Lâm. An Nam Phật Học Hội bề nổi truyền bá Phật Giáo, bề chìm là hoạt động cho đảng Cộng sản Đông Dương. 
Cũng cần nói thêm chùa Trúc Lâm nằm về phía tây thành phố Huế. Từ dưới phố Huế đi lên chúng ta phải qua khỏi chùa Từ Đàm, qua khỏi Đàn Nam Giao (nơi các vị vua nhà Nguyễn làm lễ tế trời), đi qua khỏi cầu Lim chừng 200 m, thì rẽ tay trái cuối con đường nầy là chùa Trúc Lâm. Mặt tiền của chùa Trúc Lâm nhìn sang là mộ của ông Hồ Đắc Trung và dòng tu Công giáo Thiên An. Chùa Trúc Lâm sau nầy là căn cứ vùng ráp ranh của cơ quan Thành ủy Việt Cộng Huế. Đây cũng là trạm giao liên và nơi hội họp của đám cơ sở nội tuyến hoạt động tại Thành phố Huế mà lực lượng tình báo, an ninh của Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Thừa Thiên Huế đã phá vỡ và bắt giữ một số cán bộ quan trọng của Thành ủy Huế... Chẳng hạn như tên Trung Tá Điệp Viên Cộng sản Hoàng Kim Loan, tên Đoàn Công Lập (Cựu Trưởng Ty Cảnh Sát Quốc Gia Thừa Thiên-Huế), Bác sĩ Hoàng Bá, Thích Thiện Siêu trụ trì chùa Từ Đàm v.v…
Võ Đình Cường và Đinh Văn Nam là hai đệ tử ruột, là cánh tay mặt tay trái của Bác sĩ Lê Đình Thám. Trong thời gian nầy Đinh Văn Nam đảm nhận chức vụ Chánh Thư Ký của Hội An Nam Phật Học. Vào năm 1940, Bác sĩ Lê Đình Thám cho thành lập Đoàn Thanh Niên Phật Học, giao cho Phạm Hữu Bình làm đoàn trưởng và Đinh Văn Nam tức Thích Minh Châu làm đoàn phó. Cuối năm 1947, Hội An Nam Phật Học hoạt động trở lại sau một thời gian vì chiến cuộc và đặt trụ sở tại 1B, đường Nguyễn Hoàng, Huế. Ngày 18/1/1948 theo chỉ thị của đảng Cộng sản, Võ Đình Cường ra mắt tổ chức mới gọi là “Gia Đình Phật Hóa Phổ” tại chùa Từ Đàm, có sự hiện diện của Đinh Văn Nam, Tống Hồ Cầm, Hoàng Thị Cúc, Cao Chánh Hựu, và Văn Đình Hy.
Năm 1948, theo sự phân chia công tác hoạt động đảng của Bác sĩ Lê Đình Thám, Võ Đình Cường hoạt động trong giới Phật Tử, còn Đinh Văn Nam hoạt động trong giới tăng sĩ. Năm dó Đinh Văn Nam đã 30 tuổi.
Đinh Văn Nam xin nhận Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết, trụ trì Chùa Tường Vân, làm sư phụ. Năm 1949, Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết cho Đinh Văn Nam thọ giới tại giới đàn Hộ Quốc tại chùa Bảo Quốc với Pháp tự là Minh Châu.
Năm 1952, Thích Minh Châu được cho đi Sri-Lanka rồi qua Ấn Độ học tại Đại Học Bihar, đậu Tiến sĩ Phật Học vào năm 1961.
Thời chính phủ Nguyễn Khánh, Viện Hóa Đạo PGVNTN bằng một văn thư chính thức yêu cầu chính phủ Nguyễn Khánh cho ông Thích Minh Châu về Sài Gòn để giữ chức vụ Viện Trưởng Viện Đại học Vạn Hạnh sắp được thành lập. Văn thư chính thức này Viện Hóa Đạo PGVNTN gởi cho Tướng Khánh vào năm 1964.
Tướng Khánh cho lệnh cơ quan an ninh điều tra lý lịch Đinh Văn Nam tức Thích Minh Châu. Sau đó cơ quan an ninh đã phúc trình với Tướng Khánh như sau:
Đinh Văn Nam tức Thích Minh Châu đã vào đảng Cộng sản từ năm 1943. Đinh Văn Nam có vợ và hai con đang ở miền Bắc. Đồng thời Tòa Đại Sứ của VNCH ở Ấn Độ đã phúc trình rằng: Thời gian ở Ấn Độ, Thích Minh Châu đã và đang hoạt động cho Cộng sản Hà Nội. Họ đưa ra hai bằng chứng:
1)    Năm 1952, Trung Cộng mở hội nghị quốc tế gọi là Hội Nghị Hòa Bình Châu Á và Thái Bình Dương ở Bắc Kinh. Đảng Cộng sản Hà Nội gởi một phái đoàn sang tham dự. Trưởng phái đoàn là Luật Sư Nguyễn Mạnh Tường. Thích Minh Châu từ Ấn Độ qua Bắc Kinh tham gia với phái đoàn.
2)    Ngày 10/2/1958, Hồ Chí Minh qua Ấn Độ vận động Tổng Tuyển Cử và thống nhất Việt Nam, Thích Minh Châu là Trưởng Ban Tiếp Đón Hồ Chí Minh và là Thông Dịch Viên chính của Hồ Chí Minh.
Tướng Khánh đã thông báo mọi sự kiện nầy cho Viện Hóa Đạo PGVNTN biết và kết luận rằng:
“Rất tiếc chính phủ không để cho Thích Minh Châu vào nước được vì ông ta đang làm việc cho chính phủ Cộng Sản Hà Nội”. 
Thế nhưng Viện Hóa Đạo và Thích Trí Quang không chịu và đe dọa nếu Thích Minh Châu không được chấp thuận vào nước để giữ chức vụ Viện Trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh thì Phật Giáo sẽ  “Hành động”.
Tướng Nguyễn Khánh và chính phủ của ông ta buộc lòng phải chấp thuận rước Việt cộng vào ngay trung tâm đầu não của chính phủ VNCH và thảm họa tất nhiên là ngày 30/4/1975. Tướng Nguyễn Khánh đã phê trong hồ sơ của Thích Minh Châu: "Cho vào và theo dỏi".
Thích Trí Quang và Viện Hóa Đạo đã dùng ảnh hưởng và thế lực của Phật giáo Việt Nam Thống Nhất ép Thủ Tướng Nguyễn Khánh để đưa Điệp Viên Đinh Văn Nam tức Thích Minh Châu của Hà Nội, công khai, hợp pháp, bằng visa của Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đi từ Ấn Độ đến Sài Gòn để giữ chức vụ Viện Trưởng Viện Đại học Vạn Hạnh. Thích Minh Châu dùng vỏ bọc hợp pháp là Viện Trưởng Đại học Vạn Hạnh để hợp pháp thi hành công tác điệp báo của Cục Tình Báo Chiến Lược Cộng sản miền Bắc..
                                                    Viện Đại Học Vạn Hạnh
Dược Sĩ Nguyễn Cao Thăng, Chủ Tịch Hội Đồng Quản Trị hãng OPV (Office Pharmaceutique du Vietnam), một hãng sản xuất và nhập cảng dược phẩm. OPV là một công ty dược phẩm của người Pháp tại Sài Gòn, được ông Ngô Đình Cẩn giao cho Dược Sĩ Nguyễn Cao Thăng đứng tên sang lại vào khoảng năm 1956 khi Pháp rút ra khỏi Việt Nam, nên được dư luận coi là tổ chức kinh tài của Đảng Cần Lao. Ngoài chức Chủ Tịch Hội Đồng Quản Trị hãng, OPV Nguyễn Cao Thăng còn là Dân Biểu Quốc hội thời Đệ I Việt Nam Cộng Hòa, và là Cố vấn Chính Trị đặc trách Quốc Hội cho Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu thời Đệ II Việt Nam Cộng Hòa.
Sau ngày 1/11/1963, Dược Sĩ Nguyễn Cao Thăng không bị bắt và OPV cũng không bị tịch thâu. Dư luận cho rằng bà Đào Thị Xuân Yến đã “vận động”. Bà Đào Thị Xuân Yến, nguyên Hiệu Trưởng Trường Trung học Đồng Khánh ở Huế, là vợ ông Nguyễn Đình Chi, Tuần Phủ Hà Tĩnh, nên thường được gọi là bà Tuần Chi. Ông Nguyễn Đình Chi có họ hàng với Nguyễn Cao Thăng. Bà Tuần Chi cũng là tình nhân của Hòa Thượng Thích Đôn Hậu ở chùa Thiên Mụ. Trong vị thế người tình của Đôn Hậu, bà đã đứng ra “vận động” (lo lót) để chính quyền và Phật giáo không đụng đến OPV và dược sĩ Nguyễn Cao Thăng. Ngoài ra vào mùa hè đỏ lửa tháng 5/1972 khi Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh Thừa Thiên và Thị xã Huế bắt giữ tên điệp viên Trung Tá Việt cộng Hoàng Kim Loan, y khai rằng Nguyễn Cao Thăng là người của Cụm Tình Báo Chiến Lược của Cộng sản Hà Nội gài vào chính quyền cấp cao của Chính phủ Đệ I và Đệ II Việt Nam Cộng Hòa, và bà Tuần Chi lại là cô của vợ Nguyễn Cao Thăng. Đó là lý do tại sao sau ngày 1/11/1963 Dược sĩ Nguyễn Cao Thăng không bị Thích Trí Quang yêu cầu chính quyền quân nhân bắt giữ.
Qua sự thu xếp của bà Tuần Chi, Nguyễn Cao Thăng đã tặng cho Phật giáo Việt Nam Thống Nhất một khu đất rộng khoảng 4000 m2 ở số 222 đường Trương Minh Giảng, Quận 3, Sài Gòn. Khu đất này lúc đó do bà Trương Ngọc Diệp, vợ của Nguyễn Cao Thăng đứng tên. Số tiền mặt “cúng dường” bao nhiêu không biết được. Viện Hóa Đạo quyết định dùng khu này để xây cất Viện Đại học Vạn Hạnh.
Theo yêu cầu của Viện Hóa Đạo, ngày 17/10/1964, Bộ Quốc Gia Giáo Dục đã ban hành Nghị Định số 1805-NĐ/PG/NĐ hợp thức hóa Viện Cao Đẳng Phật Học. Viện này tạm đặt trụ sở tại chùa Pháp Hội và chùa Xá Lợi ở Sài Gòn. Ngày 13/11/1964, Viện Hóa Đạo ban hành Quyết Định số 156-VT/QĐ cử Thượng Tọa Thích Minh Châu làm Viện Trưởng thay thế Thượng Tọa Thích Trí Thủ.
Ngày 9/6/1965 là ngày lễ đặt viên đá đầu tiên xây cất Viện Đại học Vạn Hạnh ở số 222 đường Trương Minh Giảng (nay là Lê Văn Sĩ). Cuối năm 1965, Viện Hóa Đạo xin phép đổi tên Viện Cao Đẳng Phật Học thành Viện Đại học Vạn Hạnh và cử Thượng Tọa Thích Minh Châu là Viện Trưởng, Thượng Tọa Thích Mãn Giác làm Viện Phó.
Năm 1966, việc xây cất Viện Đại học Vạn Hạnh hoàn tất, gồm tòa nhà chính với bốn tầng lầu. Đây là nơi đặt văn phòng làm việc của Viện Trưởng, văn phòng các Phân Khoa, văn phòng các nhà sở, thư viện, câu lạc bộ, các giảng đường, và phòng học của sinh viên.
Viện Đại học Vạn Hạnh bề mặt là một trưởng Đại học của Phật giáo, nhưng thật sự bề chìm Viện Đại học Vạn Hạnh là một căn cứ lõm của Cộng sản Hà Nội ngay trong lòng thủ đô của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Nó được điều khiển bởi một cán bộ tình báo cao cấp có tuổi đảng rất cao của Tổng Cục Tình Báo Cộng sản Hà Nội là Đinh Văn Nam, tức Thượng Tọa Thích Minh Châu của Giáo Hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất. Bên cạnh hắn ta là một chuyên viên tranh đấu bạo động Nguyễn Trực được Thích Trí Quang gởi đến tăng cường cho Thích Minh Châu.
Có thể nói từ 1966 các cuộc bạo loạn tại Sài Gòn thủ đô miền nam Việt Nam, ngoài đám sinh viên thuộc Thành ủy và Thành đoàn Cộng sản Sài Gòn-Chợ Lớn của Tổng Hội Sinh viên Đại học Sài Gòn, lực lượng của Nguyễn Trực thuộc Đại học Vạn Hạnh là một thành phần quan trọng trong việc quấy rối an ninh trật tự công cộng tại Thủ đô Sài Gòn.


On Thursday, November 28, 2019, 01:36:27 PM PST, Thanhlam Le <thanhlamle.le@gmail.com> wrote:



Fra: 'Yahoo MaIl' via Phụng Sự Xã Hội <PhungSuXaHoi@googlegroups.com>
Date: tor. 28. nov. 2019 kl. 20:15

THIẾU TÁ LIÊN THÀNH HOẠT ĐỘNG TRONG NGÀNH TÍNH BÁO AN NINH , NHỮNG DỮ LIỆU DO ÔNG CUNG CẤP
ĐỀU KHẢ TÍN , CÓ GIÁ TRỊ CAO .....KHÔNG CẦN THIẾT PHẢI TRANH CÃI .......

GS NGUYỄN BẢO
_________________________
From: nguyenphuc lienthanh <nguyenphuclt1966@gmail.com>

Sent: Thursday, November 28, 2019, 10:55:51 AM MST
TÊN vIỆT CỌNG TRÍ QUANG VỚI 8 TỘI ĐẠI HÌNH

<image.png>
ỦY BAN TRUY TỐ TỘI ÁC ĐẢNG CỌNG SẢN VIỆT NAM
TRUNG TÂM ĐIỀU HỢP TRUNG ƯƠNG
P.O.BOX 6147
FULLERTON,CA. 92834. USA
Kính gởi:
Đồng Bào Quốc Nội, Hải Ngoại
Quý Chiến Hữu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
Quý Chiến Hữu Cảnh sát Quốc Gia VNCH
XIN PHỔ BIẾN RỘNG RÃI
Orange county, Ca.28/11/2019

TRONG CUỘC BIẾN ĐỘNG MIỀN TRUNG VÀO THÁNG 6/1966, THÍCH TRÍ QUANG ĐÃ BỊ ĐẠI TÁ NGUYỄN NGỌC LOAN BẮT VÀ GIẢI VÀO SÀI GÒN.TỪ ĐÓ HẮN TA KHÔNG BAO GIỜ TRỞ LẠI HUẾ CHO ĐẾN SAU 1975. 

NẾU TRƯỚC 1975 HẮN TRỞ LẠI HUẾ, HẮN SẼ BỊ TÔI BẮT NGAY. TRUY TỐ HẮN VỚI 8 TỘI ĐẠI HÌNH. GIẢI HẮN QUA TÒA ÁN QUÂN SỰ VÙNG I CHIẾN THUẬT VỚI ĐỀ NGHỊ TỬ HÌNH
Nguyễn Phúc Liên Thành

8 TỘI ĐẠI HÌNH ĐỐI VỚI TÊN CỘNG SẢN 
PHẠM VĂN BỒNG  MANG TÊN THÍCH TRÍ QUANG

-1) Phản Quốc:
Hoạt động cho địch:  Đảng viên Cộng sản, Tình Báo Viên 
của Cộng sản Bắc Việt. 
Hoạt động cho cơ quan tình báo nước ngoài (C.I.A.) không 
có sự cho phép của chính phủ.

-2) Sát nhân:
-Vụ Tàn sát Giáo dân Thanh Bồ Đức Lợi ở Đà Nẵng. 
-Vụ tàn sát 5327 thường dân Huế vô tội vào Tết Mậu Thân 
1968.
-Các vụ tự thiêu từ 1963-1966 đều do y là chánh phạm 
nhúng tay chủ động. Điển hình như vụThích Quảng Đức, 
Thích Thanh Tuệ, và Thích Tiêu Diêu.

-3) Phá rối trị an:
153 cuộc biểu tình bạo động từ tháng 8/1964-6/1966.

-4) Khởi loạn chống chính phủ với trường hợp có binh lực 
và vũ khí. Vụ biến động miền Trung.

-5) Đốt phá tài sản của Ngoại Giao Đoàn:
Đốt Tòa TổngLãnh Sự Hoa Kỳ và Trung Tâm Văn Hóa Hoa 
Kỳ tại Huế, đốt xe Quân Cảnh Mỹ.

-6) Chiếm giữ cơ sở công quyền:
Chiếm Đài Phát Thanh Huế làm Đài Phát Thanh “Cứu Nguy 
Phật Giáo”.

-7) Chiếm đoạt tài sản Quốc gia:
Cướp kho súng, máy móc truyền tin, và 8 xe Jeep của Bộ Chỉ 
Huy Cảnh Sát Quốc Gia Thừa-Thiên-Huế trong cuộc phản 
loạn miền trung 6/1966.

-8) Hiếp dâm gái vị thành niên:
Cô bé bị Thích Trí Quang hiếp dâm tên là Trần Thị Tuyết. 
Nội vụ được biết như sau: 
Thích Trí Quang đã lên chùa Kim Sơn, gần chùa Linh Mụ, 
nhận cô bé Trần Thị Tuyết làm con nuôi.. Nhưng thực chất 
là đầy tớ gái để sai vặt trà nước, giặt áo  quần v.v… Khi ấy cô 
bé Trần Thị Tuyết mới có 12 tuổi. Tại sát cạnh chùa Từ 
Đàm có một ngôi nhà mà ông Thích Thiện Siêu trụ trì chùa 
Từ Đàm đã mua cho cha mẹ ông ta trú ngụ. Thích Trí Quang 
đã thương lượng với Thích Thiện Siêu làm  thêm một 
phòng nhỏ cho cô bé Trần Thị Tuyết ở.
Cô bé TrầnThị Tuyết ngày qua chùa Từ Đàm phục dịch cho 
thầy và đêm về nghỉ ngơi tại phòngđó. Theo lời kể của cô ta 
với 2 nhân chứng, thì 3 năm sau khi ấy cô ta 15 tuổi,thì cô 
ta đã bị Thầy Trí Quang hãm hiếp cô ta trong phòng ngủ 
của y và cứ thế kéo dài cho đến nhiều năm sau cho đến khi 
cô trưởng thành.
Ngôi nhà mà côTrần Thị Tuyết ở còn có một gia đình khác 
trú ngụ. Đó là gia đình của Đại ÚyPháo Binh Hoàng Trọng 
Bôi. Hai trong số những người biết rõ  hành động tồi bại 
của Thích Trí Quang đối với bé Trần Thị Tuyết không ai 
khác hơn là vợ chồng Đại Úy Pháo Binh Hoàng Trọng Bôi.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét