Thứ Sáu, 22 tháng 3, 2019

TRỐNG ĐỒNG LẠC VIỆT

Thơ Lưu Nguyễn Từ Thức Nhạc Dương Thượng Trúc Trình bày Phát Đạt Karafun Mũ Nâu 11
Kính chuyển!
Một chút chia sẻ, mong tiếp thêm hùng khí
giữ vững giang san trước tham vọng ngoại xâm.
ht

Tôi đáp ứng, hiệp thông cùng bạn

Trống Đồng Lạc Việt


Trống đồng Đông Sơn hiện trưng bày ở viện bảo tàng Guimet, Paris Pháp quốc

Còn ở trên đất Việt Nam hôm nay, nó vẫn là một thành phần hữu cơ của văn hoá Việt Nam, của truyền thống văn hoá Việt Nam (4) cổ xưa nhất và đẹp nhất, ngày càng tăng tiến về số lượng và kiểu dáng, hoa văn… Vả lại, những trống đồng cổ xưa vẻ đẹp nhất đó – những trống đồng loại 1 hê-gơ – trên mảnh đất “nghìn xưa văn hiến” này, lại không phải là những hiện tượng đơn lập – và do đó có thể là ngẫu nhĩ, ngoại sinh – mà, thực tế khảo cổ học Việt Nam từ những năm 20, 30 trở lại đây đã cho biết rõ, đó là những hiện tượng liên lập, là những thành phần hữu cơ, nội sinh, của nền văn hoá Đông Sơn nổi tiếng của Việt Nam và Đông Nam Á, của nền văn minh sông Hồng, của kỷ nguyên bắt đầu dựng nước và giữ nước, Văn Lang, Âu Lạc, của thời đại các vua Hùng… Cũng không ai phủ nhận được rằng – dù ai đó có ý định “gây nhiễu” bằng những sự thác loạn chữ nghĩa và trí tuệ – ghi chép về thư tịch xưa nhất về Trống đồng – đoạn ghi chép của Hậu Hán thư Mã Viện truyện – đã bộc lộ rõ ràng một sự thực: Trống đồng Lạc Việt ở đất Giao Chỉ (5). Như thế: – Trống đồng xưa nhất, về mặt khảo cổ, gắn với văn hoá Đông Sơn. Hoàn toàn hợp lý, khi gọi chúng là TRỐNG ĐỒNG ĐÔNG SƠN. – Trống đồng xưa nhất, về mặt cổ sử, gần với Lạc Việt. Hoàn toàn hợp lý, khi gọi chúng là TRỐNG ĐỒNG LẠC VIỆT. ĐÔNG SƠN – LẠC VIỆT – GIAO CHỈ đều là những hữu thể Việt Nam cổ. Do vậy, từ trống đồng xưa cổ, có thể đúc rút ra triết lý Việt cổ, có thể chất lọc ra tư duy trống đồng, tư duy Việt cổ. Về mặt phương pháp luận, sẽ hoàn toàn hợp lý, khi qua trống đồng, có thể tìm biết Tâm thức Việt cổ (hay tâm thức người Nguyên Việt, Proto-Viets).
( MẤY Ý KIẾN VỀ TRỐNG ĐỒNG VÀ TÂM THỨC VIỆT CỔ GS. Trần Quốc Vượng )

Càng gần tới ngày kỳ hạn ” Thành Đô “, hán ngụy việt cọng càng ra sức biện minh ” hán là tào – tào là hán ” đánh đồng hán với Việt nhằm trấn an dân Việt.

Để đánh tan ngụy biện bán nước vc, ta xác minh ” Đặc trưng – Nguồn gốc – Văn minh – Văn hóa Việt. ”

Trống đồng: Đặc trưng Văn minh – Văn hóa Lạc Việt

Hiện tại bọn phản quốc bán nước cầu vinh việt cọng đang mưu toan xóa nhòa việc học Lịch sử Dân tộc để chúng chuẩn bị thay thế việc học sử Việt sang học sử tàu theo như cam kết trong mật ước Thành Đô và cũng để xóa nhòa Tinh thần Dân tộc vì chúng lo sợ, một khi tinh thần Dân tộc bất khuất chống tàu xâm lăng trổi dậy, toàn dân Việt sẽ vùng lên quét sạch bọn mãi quốc cầu vinh việt cọng ra khỏi cõi bờ Đất Việt.
Để chống lại âm mưu xóa nhòa Lịch sử Dân tộc của loài quỷ đỏ phản quốc, ta cổ võ toàn dân đọc Sử Việt.

TRỐNG ĐỒNG:Bản quyền Lạc Việt
Ai là người sáng chế ra trống đồng?
Tàu nói: Hình chim trên trống mặt trống đồng là hình con cò, con sếu.
“ Theo học phái Trung Quốc, hình những “con chim bay” được khắc chạm trên trống đồng Ngọc Lũ (ở vòng thứ ba ngoài cùng) là loại cò, sếu; và họ tin rằng chính cư dân nước Sở ở đồng bằng Trung Nguyên Trung Quốc ngày xưa đã dùng trang trí trống đồng, sau đó mới lan truyền xuống các tộc ít người khác ở phía Nam.
Ta nói: Đó là con chim Lạc, biểu tượng Vật tổ của giống nòi Lạc Việt
( Tiếng bình dân là con chim cồng cộc. Dân quê Miền Nam gọi: Chim bói cá )
“ Trong khi ấy, học phái Việt Nam tuy cũng chấp nhận là loại cò, sếu, nhưng nhìn nhận đó là biểu tượng vật tổ “chim Lạc” của nhân dân Việt Nam. Dù vậy, theo kinh nghiệm hiểu biết cá nhân, chúng tôi nhận diện: đó không phải là hình thù của loại cò sếu trong tư thế đang bay, vì khi bay, chân chúng phải duỗi thẳng để bay.
Nhưng, đây là LOẠI CHIM LẶN BẮT CÁ trong những đầm nước mặn hoặc nước lợ, dọc theo các vùng duyên hải, mà người địa phương Bình Định và một sổ tỉnh Miền Trung gọi là: CHIM CỒNG CỘC. Tra từ điển tiếng Anh, chúng tôi thấy có từ “cormorant”, hoặc “anhinga”, và được Từ điển Lạc Việt dịch là “chim cốc”. Xin xem hình đính kèm: Chim cồng cộc đang lội trong đầm kiếm cá. Chim cồng cộc trong tư thế bay lượn. Khi bắt cá, chim cồng cộc lặn sâu dưới nước và lặn xa hàng chục mét. Với tư thế của chim trong hình khắc chạm trên mặt trống đồng Ngọc Lũ, chúng tôi tin đó là tư thế của chim cồng cộc trong lúc rượt đuổi bắt cá. Chúng đang đưa ngang đôi cánh để vừa lái và vừa quạt, phối hợp với hai chân cũng đang trong tư thế quắp lại để quạt nhanh về phía trước. Những lúc “trời êm, bể lặng”, người đánh bắt cá đứng trên thuyền cũng có thể trông thấy cái tư thế rượt đuổi cá của chim, giống y hệt như trong hình khắc chạm trên trống đồng. Xin xem hình dưới được trích mượn từ bài viết “Tìm hiểu ý nghĩa những hình vẽ trên bề mặt trống đồng Ngọc Lũ” của học giả Lê Văn Siêu và do Lê ngọc Minh cập nhật ngày 9/9/2010.[3] Chim lạc khắc trên bề mặt trống đồng Ngọc Lũ Như vậy, theo thiển ý chúng tôi, người Việt xưa muốn biết chỗ nào có cá nhiều trong sông biển, có thể phải theo dõi sự xuất hiện của loại chim nước này. Và vì thế, cũng theo hiểu biết chúng tôi, đây mới là lí do xác thực để dân chúng Lạc Việt chọn loài chim nước này làm vật tổ. Bằng chứng là cho đến nay, không những chúng ta còn trông thấy những hình thù chiếc thuyền được chạm khắc trên trống đồng với đầu thuyền hình đầu chim và đuôi thuyền hình đuôi chim; mà ngay trên sông biển Việt Nam ngày nay, chúng ta vẫn còn trông thấy những chiếc ghe thuyền có vẽ hình mắt chim ở đầu ghe thuyền. Ngoài ra, sự xuất hiện của loại chim lặn bắt cá này ắt phải tùy thuộc vào thời tiết và mùa cá xuất hiện. Theo câu chuyện kể của học giả Đào Duy Anh, được Tiến sĩ Lê Mạnh Hùng dẫn lại trong sách Nhìn lại SỬ VIỆT của ông, thì sở dĩ có tên gọi Lạc Việt là vì: Ngày xưa có một bộ lạc ở vùng biển Phúc Kiến, Trung Quốc. Hàng năm cứ theo gió mùa họ lại nhân gió bắc mà vượt biển đến các miền duyên hải ở phương Nam, đại khái là vùng Hải Nam và vùng đồng bằng sông Hồng và sông Mã của Việt Nam. Đến mùa gió nồm họ lại vượt trở về nơi căn cứ. Trong những cuộc vượt biển hàng năm đó, họ tự ví mình như con chim lạc, một loại chim nước ở vùng Giang Nam mà đến mùa đông họ thấy cũng rời vùng Giang Nam mà bay về nam đồng thời với việc xuất dương của họ. Đến mùa gió nồm họ lại cũng thấy những con chim lạc này cất cánh quay trở về vùng Giang Nam đồng thời với họ. Rồi ý niệm đó chuyển thành quan niệm tô-tem khiến họ nhận con chim lạc kia làm vật tổ. Cái tên vật tổ đó trở thành tên của bộ lạc và bộ tộc đó trở thành bộ tộc Lạc.[…] Sau này, khi nước Việt đời Xuân Thu bị nước Sở diệt, những tù trưởng dân Lạc ở xứ Mân (Phúc Kiến) kéo cả bộ lạc di cư về vùng đồng bắng miền Bắc Việt Nam mà trước đó họ đã biết rằng rất phì nhiêu. Đến đây họ còn giữ tên thị tộc cũ là Lạc. Và chính bằng tên ấy, Lạc, mà các nhà sử gia Tàu gọi họ.
Mặt khác, cũng theo thiển ý chúng tôi, tên gọi “chim Lạc” này cũng có thể có ý nghĩa liên hệ với tên “sông Lạc”, “ruộng Lạc”, cũng như “Lạc Việt”, “Lạc Hồng”, v.v… Chẳng hạn, theo lời kể của sách cổ Thủy Kinh Chú dẫn lại Giao Châu ngoại vực ký, thì: “Đời xưa đất Giao Chỉ khi chưa chia thành quận huyện, ruộng đất được gọi là Lạc điền, nước lên xuống theo thủy triều. Dân cư cấy bừa trên ruộng đó để sinh sống” (Lê Mạnh Hùng, sđd, tr. 67). Hoặc theo nhận xét của cố Linh mục Giáo sư Lương Kim Định, được tác giả Phạm Trần Anh trích dẫn và viết lại trong sách Huyền tích Việt , thì “Hồng Hộc, chim nước của Việt tộc thể hiện nguyên lí Âm Dương Giao Chỉ vì nó vừa bay lên trời vừa xuống dưới nước.” (*)
TRỐNG ĐỒNG: Biểu tượng uy quyền Bộ tộc
Chúng tôi rất kính phục và cảm ơn các nhà khảo cổ Tây phương nhất là ở trường Viễn Đông Bác Cổ Pháp, để rất nhiều năm tháng và tâm tư cùng đem những sử học, mày mò, khảo sát, suy luận và giả thiết. Các vị ấy đã viết nên cả những bộ sách lớn khiến trống đồng trở thành một vật nổi tiếng trên Thế Giới. Nhờ các vị mà rất đông những nhà học giả của nước chúng tôi khi đề cập đến di sản văn hoá này cũng đã khiến được cho quần chúng bình dân biết đại khái rằng ngày xưa các bộ lạc của tổ tiên mình thờ vật tổ là con chinh tên là Lạc, thờ thần mặt trời ( vì hình vẽ ở trung tâm mặt trời loé ra nhiều tia sáng),lại có những hình người đội mũ cánh chim, mặc áo xòe ra như lông cánh chim, rồi có cả mắt chim ở đầu mũi thuyền, đầu mũi tên, trên mái chèo, bánh lái thuyền, …
Nhiều vị xác quyết rằng bộ lạc cổ xưa này sau đó di cư đến các hải đảo Thái Bình Dương, nên có liên hệ bà con với bộ lạc Dayak ở Bornéo, còn có hình thuyền giống như trên trống dùng vào dịp tang lễ. Nhiều vị khác còn thêm tại miền Bắc có bộ lạc hay hoá trang cái đầu thành đầu chim trong lễ nghi cúng kiếng theo điệu trống đồng.
Trống vốn không biết nói, cũng không biết thế nào mà dám cãi. Thôi thà tuỳ người ta nhớ được một tiền tích nào ở đâu thì sẵn ghép cho nó những nội dung khác nhau. Ra sao nó cũng phải chịu.
Chúng tôi chỉ trộm nghĩ rằng, trống đồng xưa chỉ tù trưởng mới được phép có, nó như một ấn ngọc tỷ, biểu tượng uy quyền của vị Hoàng Đế, người ta chả nên lầm mà hiểu nó như một sản phẩm công nghệ để trao đổi trong phiên chợ, và hiểu những hình vẽ là để cho vui mắt người mua dùng.(**)
TRỐNG ĐỒNG: Quyển lịch vạn niên
Tài ba và nhiệm vụ của tù trưởng
Một tù trưởng hẳn phải có nhiều đám dân đến hỏi những việc thuộc đời sống hằng ngày của họ. Ông phải có hiểu biết gì hơn họ và chỉ bảo họ ra sao?
Chẳng hạn, có đám hỏi đêm nay có thể đi săn được không?
Liệu có trăng không? Trăng lên vào chặp tối hay gần sáng?
Ngày mai nước có lên không? Có thể cho thuyền ra khơi đánh cá được không?
Mùa này nên ở nhà hay đi hái trái?
Đã nên giả gạo để ủ làm rượu dùng vào ngày lễ nào đó chưa?
……
Ông tù trưởng phải có nhiệm vụ biết ngày giờ, sáng tối, trăng tròn trăng khuyết, tiết trời nóng lạnh, mưa gió, con nước, tình hình muôn thú, cũng như những dịp lễ lạt phải chuẩn bị trước. Sự tích lũy kinh nghiệm của nhiều đời tù trưởng đã phải được ghi lại, cũng như phải có gì để mà ghi lại, để mà làm việc và hướng dẫn quần chúng.
Một quyển lịch cổ xưa
Vì các lý lẽ trên, vị tù trưởng phải có một quyển lịch năm, tính theo tuần trăng, theo mùa màng khí tiết, đặt ngay cạnh mình, để dân hỏi gì là tra ngay ra được câu trả lời.
Lịch ấy vạch trên đồ đất nung thì dể vỡ, dễ mòn, không truyền được nhiều đời. Vạch trên mặt trống đồng thì thật là tiện, gọn, đúng với vật biểu tượng uy quyền của mình cùng cả dòng tù trưởng.
Vậy những hình vẽ trên mặt trống đồng Ngọc Lũ là một quyển Âm Lịch, có tháng đủ, tháng thiếu, có đêm trăng tròn, trăng khuyết, hay không có trăng, lại có cả năm nhuận và chu kỳ 18 năm để tính tháng dư, cũng như có những chỉ vạch về 4 mùa trong năm.
Nếu vậy thì không những không có gì là mê tín ( thờ chim, vật tổ mặt trời, mặt trăng, ca vũ để cầu thần linh,…) mà có vẻ như người xưa còn có tinh thần thực tế, hợp lý, khoa học, chính xác, chưa biết chừng người đời nay còn phải giật mình là đằng khác nữa.
Kết luận:
Mặt trống đồng Ngọc Lũ quả đúng là một quyển lịch được sắp xếp và vẽ một cách thông minh. Trừ một vài chi tiết chưa hiểu rõ như đã nói, những nét chính của hình vẽ đã khiến ta chân thành khâm phục rằng: Với mức độ hiểu biết và tiến hoá của đời nay cũng chưa chắc có người bố trí nổi một bản ghi thời gian tài tình như thế.(**)

HỒI TRỐNG MÊ LINH
Một xin trả sạch nước thù
Hai xin thu lại nghiệp xưa họ Hùng
Ba kẻo oan ức lòng chồng
Bốn xin vẽn vẹn sở công lịnh nầy
Bà Trưng quê ở châu Phong,
Giận người tham bạo thù chồng chẳng quện
Chị em nặng một lời nguyền,
Phất cờ nương tử thay quyền tướng quận
Ngàn Tây nổi áng phong trần,
Ầm ầm binh mã xuống gần Long biện
Hồng quần nhẹ bước chinh yên,
Đuổi ngay Tô Định dẹp tan biên thành
Đô kỳ đóng cõi Mê Linh,

Lĩnh nam riêng một triều đình nước ta.

TRĂM NĂM BIA ĐÁ THÌ MÒN
NGÀN NĂM BIA MIỆNG VẪN CÒN TRƠ TRƠ
Mã Viện: Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt
Minh Tư Tông Chu Do Kiểm ( Sùng Trinh ): “Đồng trụ chí kim đài dĩ lục””
( Trụ đồng đến nay rêu đã xanh )
Giang Văn Minh, sứ thần Đại Việt: “ Đằng Giang tự cổ huyết do hồng
( Sông Đằng từ xưa máu còn đỏ )

BÌNH NGÔ ĐẠI CÁO
Thay trời hành hoá, hoàng thượng truyền rằng.
Từng nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương

Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau
Song hào kiệt thời nào cũng có.

Người sưu tậpNguyễn Nhơn
( 20/5/2018 )
(*) vns.hnue.edu.vn/Tư-liệu/Lịch-sử/article/16
TRỐNG ĐỒNG: phản ánh nét văn hoá Việt Nam nói riêng và Đông Nam Á nói chung,
(**) Việt Nam Văn Minh Sử – Lê Văn Siêu

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét