Thứ Năm, 27 tháng 6, 2019

Cái ôm cuối cùng Pham Doan Trang

Pham Doan Trang

Là cái ôm này của tôi với bác – nhà giáo Phạm Toàn, người trí thức đáng kính của phong trào dân chủ Việt Nam, ông giáo già vui tính của hàng nghìn học sinh – sinh viên qua nhiều thế hệ, dịch giả tài hoa của “Nền dân trị Mỹ” và nhiều tác phẩm khác, đồng sáng lập viên – biên tập viên – nhà báo độc lập xuất sắc của Bauxite Việt Nam, nhà cải cách giáo dục tiên phong với nhóm Cánh Buồm…

Tôi chẳng bao giờ nói đủ, viết đủ về bác.
Có vài lần tôi “gạ” bác viết hồi ký, vì tôi thấy sẽ quá phí phạm nếu một con người như bác mất đi, đem theo vô vàn ký ức và trải nghiệm của dân tộc. Chẳng hạn như bác từng là một trong những học sinh ở lại thủ đô chiến đấu giáp lá cà với lính Pháp trong 60 ngày đêm của Hà Nội năm 1946. Bác có lẽ cũng là nhà văn – dịch giả duy nhất “sống sót” qua các đợt thanh trừng văn nghệ sĩ trí thức mang tên Nhân Văn Giai Phẩm và Xét Lại. Bác từng trải qua những năm tháng cô đơn tuyệt đối, khi mà “bạn bè xung quanh bị bắt đi tù sạch, còn trơ lại mỗi mình” (thập niên 1960). Chán đời, tuyệt vọng, Phạm Toàn uống thuốc ngủ tự tử nhưng không chết, có thể do thuốc ngủ… rởm. Không thể tưởng tượng một con người vui vẻ, tràn ngập tình yêu như thế lại có lúc tự tử.
Sau những năm tháng dạy học trên miền núi, Phạm Toàn trở về thủ đô, tiếp tục sự nghiệp trồng người. Thời bao cấp, “thầy Toàn” cũng làm đủ nghề để sống như ai, từ nuôi lợn, nấu sữa đậu nành, đến đọc sách thuê ở thư viện (đọc rồi tóm tắt lại, viết vào một mẩu giấy gắn vào sách để các độc giả được biết sơ nội dung sách trước khi mượn). Chiều chiều, đi làm về, ông lại cởi trần quần đùi, ôm đàn guitar chơi hết “Suối Mơ”, “Thiên Thai” đến Serenade… Cả khu tập thể trố mắt. Trong bối cảnh cả nước mặc đồng phục thì sống một cách lãng tử như nghệ sĩ thế là “dị” lắm.
Năm 2007, ở tuổi 75, ông là dịch giả của cuốn sách đồ sộ ngàn trang “Democracy in America” mà để xuất bản được, ông đã khéo léo chuyển ngữ từ “Democracy” (dân chủ) thành “dân trị”, tuy không hoàn toàn đồng nghĩa với “dân chủ” nhưng vẫn đúng bản chất của khái niệm này và mở ra nhiều hàm ý mới cho phong trào xã hội dân sự ở Việt Nam.

Ở tuổi 77, ông sáng lập nhóm Cánh Buồm. Gọi là “nhóm” nhưng tính tổ chức, nhóm hội không phải là một đặc điểm quan trọng của nó. Cánh Buồm thực chất đại diện cho một đường lối giáo dục mới, một phương pháp mới nhằm giúp học sinh tự tổ chức việc học của mình, tự học, tự tư duy và tóm lại, thoát khỏi nền giáo dục nhồi sọ để thành người.
Cũng năm ấy (2009), ông sáng lập và là một trong các biên tập viên, cây bút chính của Bauxite Việt Nam – trang web đầu tiên kết nối trí thức người Việt trong và ngoài nước trong nỗ lực phản biện chính sách, mở mang quan trí, dân trí. Thời đó ở Việt Nam, Facebook chưa phổ biến; Bauxite Việt Nam cùng với Ba Sàm là hai trang báo độc lập hiếm hoi với lượng view có lúc lên tới 1 triệu/ngày.
Bây giờ các blogger hoạt động dân chủ – nhân quyền ở Việt Nam hay nói tới chuyện “làm truyền thông” trên nền Facebook và YouTube. Ít người biết rằng thời 2009-2010, ông giáo Phạm Toàn đã là một nhà báo độc lập cực kỳ xuất sắc; một mình ông gần như dẫn dắt chiến dịch truyền thông về vụ án của TS. Luật Cù Huy Hà Vũ.
Ông luôn nhanh nhạy, đi trước thời đại, tiên phong trong nhiều lĩnh vực. Chính ông chứ không ai khác, là người nói với tôi vào cuối năm 2011 rằng “phải tìm cách quốc tế hoá cuộc chiến đấu này cháu ạ, làm báo cáo tố cáo chúng nó, gửi Liên Hợp Quốc và các tổ chức khác. Chứ nếu chỉ dựa vào nội lực trong nước, chúng nó chả sợ đâu”.
Năm 2009, tôi bị bắt giam 9 ngày.
Bây giờ nhìn lại thì thấy chuyện chẳng có gì, nhưng khi đó, với tôi, nó là một biến cố khủng khiếp, làm toàn bộ thế giới của tôi trước đó sụp đổ. Tôi cũng trải nghiệm trạng thái cô đơn tuyệt đối như bác Toàn năm nào: Nhiều đồng nghiệp nhìn thấy tôi là bỏ chạy từ xa, cắt hết liên lạc điện thoại, email… Giới hoạt động dân chủ ngày đó cũng không mấy người để ý đến tôi – một phóng viên lề phải bị công an bắt trong một vụ việc đầy mập mờ, bưng bít.
Dù sao, trong những ngày tháng đen tối ấy, vẫn có những người không bỏ rơi tôi, và một trong số đó là bác Phạm Toàn. Tôi đến gặp ông, run run, lo sợ. Sợ ông xem thường, sợ ông bận quá chẳng có thời gian tiếp tôi. Suy cho cùng thì tôi là ai chứ, chỉ là một phóng viên quèn, và giả sử có bị tù luôn chăng nữa thì cũng chỉ là một trong hàng trăm người dân thấp cổ bé họng đi tù ở đất nước này vì đã làm điều gì đó khiến nhà cầm quyền không hài lòng. (Mà điều gì thì cũng chẳng ai biết).
Nhìn thấy tôi, ông ôm choàng tôi vào lòng, xoa đầu, vỗ vào lưng mấy cái: “Con chó con. Con chó con nhé”. Trong đời, tôi chưa nghe ai nói những lời ấy một cách âu yếm, đầy yêu thương lại hóm hỉnh như vậy. Nhưng có nghĩa là ông biết tôi từ trước khi tôi tới gặp ông, và kể cả không biết thì cách đối xử của ông cũng đầy ấm áp đến mức tôi quên hết mặc cảm và sợ hãi.
Tình bạn vong niên giữa ông giáo già và “con chó con” bắt đầu từ đó, tháng 11/2009. Mười năm qua là bao nhiêu biến động, nhưng tôi luôn có bác. Hai năm ở nước ngoài, tôi luôn lo sợ có chuyện gì xảy ra với bác; có ba người khiến tôi canh cánh lo nhất suốt thời gian hai năm đó là “mẹ, bác Toàn, và chú Bạt”.
Đôi khi tôi thấy mình giống bác Toàn một cách kỳ lạ, gần như giống đủ thứ, trừ chuyện giới tính và một điểm nữa là làm gì, tôi cũng thua xa bác – một người chưa từng có bằng đại học. Tôi chỉ biết mỗi tiếng Anh, thêm chút xíu tiếng Tây Ban Nha (đủ để hát), còn bác sử dụng thành thạo cả tiếng Anh và tiếng Pháp. Tôi chật vật chơi guitar không xong trong khi bác chơi cả piano, violin, guitar và mandoline. Bác dịch, viết cả triết học, chính trị, tâm lý học lẫn thơ văn, kịch… còn “con chó con” chỉ loay hoay với những thứ kiến thức bình dân kiểu “for dummies”, chẳng bao giờ viết hay dịch nổi câu thơ nào.
Con người tài năng, tài hoa là thế nhưng vô cùng khiêm nhường. Mỗi lần tôi đề nghị bác viết hồi ký, bác lại đáp trả bằng một cái lườm: “Thôi, không có hồi ký hồi kiếc gì cả, người ta cười cho”. Bị gạ quá, bác lại thoái thác kiểu: “Ừ thì để khi nào tao làm xong hết bộ sách Cánh Buồm từ lớp 1 đến lớp 12 đã, để hết việc đã”. Mà bác thì có bao giờ hết việc. Phạm Toàn chính xác là một con nghiện công việc (workaholic); ông làm việc mười mấy tiếng mỗi ngày, với một niềm yêu thích, say mê như trẻ con xem tivi (và bây giờ là Ipad) vậy.
Đôi khi tôi phải tự hỏi, nền giáo dục thời Pháp thuộc có điều gì khiến nó tạo ra cả một thế hệ những trí thức như vậy? Và tôi cũng nhận thấy một khoảng đứt gãy rất lớn từ thế hệ của bác đến chúng tôi bây giờ…
Khi tôi phục xuống bên giường ông, ông ôm lấy tôi. Căn bệnh ung thư phổi giai đoạn cuối khiến ông yếu quá rồi, không nhận ra tôi nữa. Mọi người nhắc: “Đoan Trang về thăm ông Toàn kìa”. Mắt ông sáng lên, rồi ông cau mặt lại: “Về làm gì. Nguy hiểm. ‘Nó’ bắt thì sao?”.
“Thì kệ nó”. Tôi ôm lấy ông và khóc nức lên. Con người mà cả đời chỉ biết thương yêu và bảo vệ, nâng đỡ người khác, con người mà cả đời làm việc và cống hiến với một niềm đam mê nồng nhiệt, con người mà cả đời đi tiên phong và không hề biết nịnh, biết sợ cường quyền… Con sư tử của một thế hệ trí thức tinh hoa cuối cùng…
Đ.T.
Nguồn: https://www.facebook.com/photo.php?fbid=10157650931138322&set=a.10153539242513322&type=3&theater



Phạm Toàn: Cánh buồm vừa rời bến

Mặc Lâm



Phạm Đoan Trang đến thăm nhà giáo Phạm Toàn. (Hình: Trang Facebook của Phạm Đoan Trang)
Phạm Đoan Trang đến thăm nhà giáo Phạm Toàn. (Hình: Trang Facebook của Phạm Đoan Trang)
Năm 2010 tôi viết bài về bộ sách giáo khoa do nhóm Cánh Buồm chủ trương, lúc ấy tôi được biết tác giả thật sự của những cuốn sách đặc biệt này là nhà giáo Phạm Toàn và từ lần đầu tiên phỏng vấn ông tôi đã bị sức hút từ con người đặc biệt ấy hấp dẫn, đến nỗi tôi tin ông là người có kiến thức uyên bác có thể giải quyết cho tôi bao điều về Việt Nam nhất là trong thế giới của Hà Nội, nơi ông sống cả đời và làm việc không hề mệt mỏi cho tới ngày nhắm mắt.
Hai ngày trước đọc một bài viết ngắn của Đoan Trang về “cái ôm cuối cùng” với ông, tôi biết rằng ngày ra đi của ông đã tới nhưng không đủ can đảm gọi cho ông, bởi tôi sợ ông mệt trong cơn bạo bệnh và một nỗi sợ khác âm ỉ nhưng mãnh liệt hơn khiến tôi không đành lòng bấm nút, tôi sợ sẽ khóc và làm ông khóc theo như đã từng xảy ra nhiều năm trước, bởi tôi biết ông rất quý tôi qua thời gian tôi và ông chia sẻ những điều mà cho tới nay tôi tự hỏi không biết có ai thay thế được ông trong cuốn sách đời của lòng tôi hay không.
Tôi có duyên lắm mới nghe được giọng nói sang sảng hào phóng của ông qua nhiều lần trò chuyện trước các vấn đề buốt nhức của nước nhà. Từ trăn trở lẫn khó khăn khi làm Cánh Buồm, tới những bài viết, dịch của ông trên trang Bauxite. Ông trẻ lắm trong lời ăn tiếng nói mà còn trẻ cả ở nhân sinh quan, cung cách sống và quan niệm về giới tính. Với ai ông cũng mở lòng ra mà trò chuyện vì chỉ như vậy ông mới nhìn thấy chính mình. Nhà giáo Phạm Toàn được người chung quanh quý trọng không phải ở khả năng thuyết phục mà ở sự minh mẫn lồ lộ trong từng giọng cười cho tới từng cái siết tay thân thiện.
Có lần gọi về cho ông chỉ để hỏi thăm tình trạng của trang Bauxite, ông im lặng một chốc rồi hỏi tôi: Thế cậu có ý kiến gì giúp cho nó mạnh hơn lên hay không? Tôi cũng bất ngờ và hỏi lại: Nó đang mạnh như thế còn gì? Ông cười lớn: Chưa đủ mạnh để công an tránh xa.

Làm Cánh Buồm việc quan trọng nhất là kinh phí cho các bạn trẻ trong nhóm. May mắn cho ông là có khá nhiều Mạnh Thường Quân ở nhiều nước gửi về giúp đỡ, nhưng những đồng tiền nhận được vẫn không đủ trang trải. Ông thường xuyên lặn lội vào Nam nhằm kiếm thêm Mạnh Thường Quân nhưng không may, Sài Gòn tỏ ra không mặn mà lắm với chương trình mà Cánh Buồm khởi xướng ngoại trừ những người bạn thân của ông. Ông không buồn chút nào khi nói với tôi ông sẽ lại vào giới thiệu Cánh Buồm nữa cho tới khi nào “vỡ ra” mới thôi.
Ông sống một cuộc đời giản dị và khiêm tốn mặc dù cuộc sống dành cho ông khá nhiều cảm tình. Dưới mắt ông đồng tiền không là gì cả mặc dù thu nhập của ông khó ai đoán được từ nguồn nào. Tôi nhớ như in khi ông nhắn tin cho tôi bảo gọi ông gấp có chuyện quan trọng, khi gọi được thì ông cho biết: lâu quá không nghe mày gọi nên… nhớ, vậy thôi.
Thay vì bực mình, tôi xúc động như người say rượu. Tôi biết ông quý tôi mặc dù chưa hề gặp nhau. Lần tôi về Hà Nội gần nhất có yêu cầu Phạm Xuân Nguyên dẫn tôi tới thăm ông nhưng lúc ấy ông lại đi vắng, tiếc nhưng không còn cơ hội nào khác tôi chỉ biết e-mail nhắn tin cho ông vì không gọi được mặc dù đang ngồi tại Hồ Gươm. Lần duy nhất ấy vẫn làm tôi tiếc nuối không ôm được người mình yêu quý. Duyên với nhau chưa đủ để gặp mặt nhưng tôi và ông có những cuộc điện thoại dài nhiều tiếng đồng hồ bàn về những vấn đề hoặc ông hoặc tôi chăm chú.
Khi tôi cần tìm hiểu về một vấn đề giáo dục hay văn hóa Hà Nội ông sẵn sàng ngồi hàng giờ tỉ mỉ cho tôi biết những gì đã xảy ra, và hơn thế ông còn đưa ra những kết quả hết sức thuyết phục về những gì ông suy đoán. Tuy nhiên chưa bao giờ tôi thấy ông tỏ vẻ tuyệt vọng về bất cứ vấn đề gì kể cả vấn đề gai góc nhất khi ông gặp khó khăn lúc điều hành trang Bauxite. Lúc nào ông cũng cười thoải mái, không hề giả tạo hay gượng ép, nghe tiếng cười của ông người ta cảm thấy cuộc đời gần gũi và đáng sống hơn. Cũng trong tiếng cười ấy ông thường kể cho tôi nghe về những người an ninh có thời gian vây chung quanh ông đã bị tiếng cười làm cho họ bối rối ngần nào. Nếu Lão Ngoan Đồng trong tiểu thuyết của Kim Dung là có thật thì hình ảnh nụ cười của ông đáng được ghi nhận như một cốt cách, một tâm trạng thiện lương lúc nào cũng túc trực trong tâm hồn ông.
88 tuổi đáng được gọi là đại thọ cho những người bình thường nhưng với ông thì không đủ để ông làm việc. Căn nhà số 713 Lạc Long Quân tầng 7, quận Tây Hồ, Hà Nội từng chứa hàng ngàn nụ cười của ông giờ chắc nó sẽ nhớ như bạn bè thân quyến của ông từng chứng kiến. Tôi luôn cả tin rằng Phạm Toàn không bao giờ nuối tiếc cuộc đời này bởi ông thừa biết sống đến ngần ấy thời gian, chưa làm điều gì buồn lòng cho người khác ngược lại còn mang đến niềm kỳ vọng cho bao thế hệ qua bộ sách Cánh Buồm đã quá đủ cho một sĩ phu Bắc Hà mặc dù địa chỉ e-mail của ông là phamtoankhiemton.
M.L.
Nguồn: https://www.voatiengviet.com/a/pham-toan-canh-buom-nha-giao/4974467.html


Nhà giáo Phạm Toàn qua đời


0

Nhà giáo Phạm Toàn qua đời | Đàn Chim Việt Online - Thông tin - Chính tr...


Nhà giáo Phạm Toàn
Nhà giáo, dịch giả Phạm Toàn, tức nhà văn Châu Diên đã qua đời hồi 6giờ 40 phút ngày 26/6/2019 tại Hà Nội, sau một thời gian bị ung thư phổi. Ông hưởng thọ 88 tuổi.
Ông cũng là một trong thành 3 thành viên sáng lập và điều hành trang mạng Bauxite từ 10 năm nay. Trang web ra đời với mục đích đăng tải các ý kiến phản biện về dự án Bauxite đã trở thành một trang chính trị với hàng ngàn vài biết về thực trạng xã hội Việt Nam cũng như là nơi chuyển tải các ý kiến trái chiều.
Nhà giáo Phạm Toàn trong những năm cuối đời điều hành nhóm Cánh Buồm, ra sách cải cách giáo dục. Ông là người làm việc không ngừng nghỉ cho tới vài tuần cuối cùng, khi ông nằm viện. Ông dịch, viết sách, báo, soạn sách giáo khoa, đào tạo và huấn luyện thế hệ kế tiếp và lên tiếng trước những vấn đề bức bách của đất nước.
Vì những đóng góp cho cải cách giáo dục Việt Nam nhà giáo Phạm Toàn và nhóm Cánh Buồm đã vinh dự được Quỹ văn hóa Phan Châu Trinh trao giải thưởng Phan Châu Trinh. Ông là tác giả hoặc đồng tác gỉa của nhiều bộ sách giáo khoa dậy văn, dậy tiếng Việt, tâm lý học, tiếng Anh .v.v.
Dưới đây là một số thống kê chưa đầy đủ về các đầu sách ông đã dịch. Mặc dù ông không phải là một người được đào tạo về dịch thuật chuyên nghiệp. Các tác phẩm được dịch từ Anh ngữ và Pháp ngữ.
– Cơ cấu trí khôn, Howard Gardner, (NXB Giáo dục, 1997, NXB Tri Thức, 2013)
– Sự hình thành trí khôn ở trẻ em, Jean Piaget, (NXB Tri Thức, 2016)
– Sự xây dựng cái thực ở trẻ, Jean Piaget, (NXB Tri Thức, 2016)
– Sự hình thành biểu tượng ở trẻ em, Jean Piaget, (NXB Tri Thức, 2017)

Tập truyện “Mái nhà ấm” (1959)
Tập truyện “Con nhện vàng” (1962)
Tiểu thuyết “Chín mươi ba” (Victor Hugo)
Truyện ngắn “Hamlet thiu thiu ngủ”,
“Hoàng tử bé” (Antoine De Saint Exupery), 1986
“Bay đêm” (Antoine De Saint Exupery), 1986, “Nhà tiên tri” (Kahlil Gibran), 1992
Truyện ngắn “Hội ngộ ở phố Hờ Bờ”, 2006
Truyện ngắn “Gia đình cãi cọ”, 2006
“Con trai của người” (Khahlil Gibran)
“Vẻ đẹp đời” (Khahlil Gibran),
Truyện ngắn “Miên mợ và U và…”, 2010
“Sư tử ” (J. Kessel), 1987,
“Cô chủ quán” (K. Goldoni)1983
Kịch “Ruồi” (J. P. Sartre), 1985
Tiểu thuyết “Người Sông Mê”, 2003
Tiểu thuyết “Vào một đêm không trăng”, Đới Tư Kiệt, 2008
Tiểu thuyết “Mặc cảm của Đ.”, Đới Tư Kiệt, 2003
Tập truyện ngắn “Bảy mươi ba chiếc cối đá”, 2006
Tập truyện ngắn “Sấm trên núi”, 2010
Truyện ngắn – Kịch “Ngọn đèn xanh”, 2013

Đàn Chim Việt tổng hợp

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét