Chủ Nhật, 9 tháng 12, 2018

Trái đắng Genève (1954) – Hạ Mai

Trái đắng Genève (1954) – Hạ Mai
Sự thay đổi Ban lãnh đạo trong điện Kremlin sau cái chết của I.V.Stalin (5-3-1953) – một trong những nhân vật nổi tiếng nhất thế kỷ XX, đã khiến các nhà lãnh đạo phương Tây nghĩ đến khả năng giảm bớt căng thẳng quốc tế. Hy vọng đó được thể hiện trong bài phát biểu nổi tiếng “The chance for Peace” của Tổng thống Eisenhower (16-4-1953) và phát biểu tại Hạ viện nước Anh của Thủ tướng Winston Churchill (11-5-1953). Kêu gọi tổ chức đàm phán cấp cao nhằm “hạ nhiệt” cuộc Chiến tranh Lạnh đang rất “nóng” của Nguyên thủ một số nước phương Tây gặp sự phản hồi tích cực của Liên Xô. Hội nghị Genève được “thai nghén” trong điều kiện đó.
1– Đường đến Genève
Trong xu hướng hòa hoãn giữa các nước lớn, ngày 28-9-1953, Liên Xô đề nghị các nước có liên quan tổ chức một hội nghị quốc tế, xem xét, đề xuất các biện pháp giảm thiểu căng thẳng trong tình hình thế giới, giải quyết vấn đề chiến tranh – hòa bình ở khu vực Đông Á và Đông Nam Á. Ngày 25-1-1954, Hội nghị cấp Bộ trưởng Ngoại giao giữa Liên Xô, Anh, Pháp, Mỹ khai mạc tại Berlin ra thông báo sẽ triệu tập Hội nghị Genève, bàn giải pháp cho vấn đề Triều Tiên và lập lại hoà bình ở Đông Dương.
Thất bại liên tiếp trên chiến trường, lúng túng, bị động trong chiến lược, chiến thuật, ngân khố thâm hụt trầm trọng…, Pháp mong muốn nhanh chóng tìm ra một giải pháp cho cuộc chiến tranh Đông Dương. Nhìn thấy ở Hội nghị Genève cơ hội giải quyết chiến tranh Đông Dương thông qua thương lượng, dù đang ở vào tình thế bất lợi về quân sự, song Pháp muốn đàm phán trên tư thế áp đảo – cuộc thương lượng như De Gaulle minh định: “Đó không phải là nhượng bộ, đó là hòa bình của vũ trang”[1]. Nước Pháp đặt cược vào canh bạc lớn – giải quyết cuộc chiến tranh “một cách thể diện” bởi H.Navarre và “con nhím thép” Điện Biên Phủ – “Verdun” của Đông Nam Á. Pháp quyết tâm bảo vệ Điện Biên Phủ đến cùng, quan niệm “nếu giữ được Điện Biên Phủ có nghĩa là cứu được xứ Đông Dương thuộc Pháp…”[2].
Đón nhận tin tức về Hội nghị Genève, ngày 2 -11- 1953, Hồ Chí Minh thay mặt Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) đưa ra thông điệp: “Nếu Chính phủ Pháp đã rút ra được bài học trong cuộc chiến tranh mấy năm nay, muốn đi đến đình chiến ở Việt Nam bằng cách thương lượng và giải quyết vấn đề Việt Nam theo lối hòa bình thì nhân dân và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẵn sàng tiếp ý muốn đó”[3]. Ngày 13-13-1954, Hội đồng chính phủ VNDCCH nhóm họp, bày tỏ quan điểm tán thành Hội nghị Genève, thảo luận về lập trường, phương châm đấu tranh ngoại giao và cử Đoàn đại biểu tham gia Hội nghị (do Phạm Văn Đồng dẫn đầu). Trên quan điểm giải quyết chiến tranh: “cơ sở của việc đình chiến ở Việt Nam là Chính phủ Pháp thật thà tôn trọng nền độc lập thực sự của nước Việt Nam” [4], VNDCCH chủ trương vừa đánh, vừa đàm. Chủ trương “đánh – đàm” được khái quát ngắn gọn: Đánh cho đến khi có ưu thế hơn đối phương và đợi đến lúc ở Genève đạt được được thoả thuận chính trị phù hợp rồi mới đình chiến, thậm chí chỉ đồng ý đình chiến về nguyên tắc, còn nội dung đình chiến cụ thể phụ thuộc vào sự phát triển của tình hình.
Nhằm tạo thế cho cuộc đàm phán sắp đến, trung tuần tháng 12-1953, Trung ương Đảng Lao động Việt Nam hạ quyết tâm tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, coi đó là đòn “rất quan trọng không những về quân sự mà cả về chính trị, không những đối với trong nước mà đối với quốc tế”[5].
Nhận xét về thời điểm phát động và mục tiêu cuộc “so găng lịch sử” Điện Biên Phủ, sĩ quan tình báo Mỹ L. A. Patti viết: “Cái pháo đài mới được tăng cường này đã có tầm quan trọng về chính trị và tâm lý hơn hẳn giá trị chiến lược thực tế của nó vì Hội nghị Genève sắp khai mạc”[6]. Với quyết tâm của hai bên tham chiếm, lực lượng con người và vật chất được dốc vào thung lũng lòng chảo vùng Tây Bắc[7], Điện Biên Phủ trở thành nơi đọ sức, cuộc chạy đua nước rút quyết liệt, mà mỗi bên đều gửi gắm vào đó những mục tiêu quyết tử, có giá trị quyết định trong ván cờ cuối cùng. Mục tiêu trên bàn đàm phán của Hội nghị Genève) đã biến Điện Biên Phủ thành đấu trường khốc liệt, khi kết cục của nó quyết định “miếng bánh” của các bên liên quan, tất nhiên, nếu việc chia bánh được đặt trên căn cứ của luật chơi “sòng phẳng”, công bằng.
Liên quan tới Quốc gia Việt Nam (QGVN), tháng ba năm 1954, Thủ tướng Nguyễn Phúc Bửu Lộc mở cuộc điều đình với Pháp về chủ quyền của Việt Nam, đề nghị Pháp ký hai Hiệp ước. Hiệp ước thứ nhất về công nhận độc lập trọn vẹn của QGVN, QGVN sẽ tách khỏi Liên hiệp Pháp trở thành một nước độc lập. Hiệp ước thứ hai về quan hệ giữa Việt Nam và Pháp[8].
Những nước còn lại tham dự Hội nghị (Liên Xô, Trung Quốc, Mỹ, Anh) tuy không là “đương sự” trực tiếp, song lại có quyền quyết định quan trọng, có những dự định, kế hoạch tiếp cận và giải quyết những vấn đề trọng yếu của Hội nghị đáp ứng/thỏa mãn quyền lợi của mình lớn hơn mục tiêu giải quyết vấn đề Triều Tiên, cũng như vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương. Bức tranh toàn cảnh mối liên hệ giữa các nước lớn có mặt ở Hội nghị mang tính “thắt” – “mở”, bị chi phối, quy định bởi những toan tính và kế hoạch riêng/chung hết sức phức tạp, bộc lộ ngày một rõ hơn trong tiến trình Hội nghị.
2- Nỗi thất vọng mang tên Genève
Ngày 26-4-1954, Hội nghị Genève chính thức khai mạc. Giai đoạn một của Hội nghị chủ yếu bàn về vấn đề Triều Tiên, song không khí Genève ngày một nóng dần lên bởi những diễn biến chiến sự ở Đông Dương. Đặc biệt, Hội nghị khai mạc trùng với thời điểm Quân đội nhân dân Việt Nam kết thúc thắng lợi chiến dịch tấn công đợt 2 ở Điện Biên Phủ, khiến Genève dường như cũng khét lẹt mùi khói lửa chiến trường.
Ngày 4-5-1954, Đoàn VNDCCH do Thủ tướng Phạm Văn Đồng dẫn đầu có mặt ở Genève[9]. Phạm Văn Đồng vừa đặt chân tới Genève, “vấn đề Đông Dương tại Hội nghị nhộn nhịp hẳn lên”[10]. Phạm Văn Đồng “đến Genève với nét mặt rạng rỡ. Tin chiến thắng từ mặt trận Điện Biên Phủ liên tiếp báo về làm cho ông tràn đầy hy vọng”[11].
Cuối cùng, thời khắc định mệnh đã đến – 17 giờ 30 phút ngày 7-5-1954, Quân đội nhân dân Việt Nam chiếm Sở Chỉ huy cứ điểm, Tướng Đờ Cát và toàn bộ Bộ Tham mưu bị bắt sống – cuộc chiến tranh Đông Dương rơi vào “điểm trắng” của lịch sử. Cả nước Pháp chết lặng, bàng hoàng. Wilfred Burchett bình luận: “Người đồng chí thân thiết của ông Phạm Văn Đồng là ông Võ Nguyên Giáp đã trao lại cho ông một vũ khí hiệu nghiệm nhất, mà không phải bất kỳ nhà thương lượng nào cũng dám nghĩ đến khi bắt đầu một hội nghị như vậy”[12].
Điện Biên Phủ thất thủ đã khiến nội tình nước Pháp chia rẽ sâu sắc thêm, Pháp không còn con đường nào khác là phải nhanh chóng rút lui khỏi Đông Dương. Nhiệm vụ cấp bách nhất của phái đoàn Pháp tại Hội nghị Genève là đạt được ngừng bắn càng sớm càng tốt, hy vọng thương lượng trên thế mạnh của Pháp tan vỡ. Trong phiên họp đầu tiên, “Trưởng đoàn đám phán Pháp Mendès-France đưa ra đề nghị hạn chế sự hiện diện của quân đội Pháp ở phía nam vĩ tuyến 17”[13], dù trước đó khăng khăng yêu cầu vĩ tuyến 18.
Điện Biên Phủ hoàn toàn thắng lợi một ngày trước khi Hội nghị Genève về Đông Dương khai mạc – “nhờ thời điểm tuyệt diệu của ông Giáp, kế hoạch Đa-lét nhằm quốc tế hoá cuộc chiến tranh đã thất bại”[14]. Điều đó càng củng cố thêm lập trường đàm phán “thực sự độc lập, thống nhất và dân chủ tự do”[15]; “hòa bình không thể tách rời độc lập dân tộc”[16] của VNDCCH. Những yếu tố hội tụ cho phép VNDCCH hy vọng về một kết quả công bằng tại Genève thỏa mãn lập trường đàm phán đã xác định.
Về phía Quốc gia Việt Nam, ngày 4-6-1954, Thủ tướng Pháp Joseph Laniel và Thủ tướng QGVN Nguyễn Phúc Bửu Lộc ký Hiệp ước công nhận QGVN độc lập hoàn toàn[17]. Ít lâu sau, Hiệp ước liên hiệp Việt-Pháp thỏa thuận về việc Việt Nam nằm trong Liên hiệp Pháp cũng được ký kết[18]. Trở thành Thủ tướng, Mandès France hứa tôn trọng những thỏa ước này – đây cũng là cơ sở để QGVN yêu cầu người Pháp phải tôn trọng sự thống nhất lãnh thổ của Việt Nam, chống lại mọi sự chia cắt; coi sự hiện diện của phái đoàn VNDCH ở Hội nghị là không có tính pháp lý.
Như đã nói ở trên, đến Hội nghị với những yêu cầu phù hợp với tương quan lực lượng trên chiến trường (Pháp phải thỏa thuận vô điều kiện về việc rút quân theo lịch trình ấn định, Việt Nam phải được thống nhất), VNDCCH mong muốn độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ và có lập trường đàm phán khá cứng rắn. Tuy nhiên, tiến trình đàm phán, kết quả Hội nghị thực sự là điều bất ngờ, là “viên thuốc đắng” mà VNDCCH phải cố nuốt trôi: Thỏa thuận đạt được ở Genève nghiêng về kế hoạch của Pháp hơn là của VNDCCH[19]. Những nội dung mang tính then chốt được chính thức ấn định tại Hội nghị (20-7-1954) chỉ mang lại cho VNDCCH nửa nước trên bản đồ thế giới.
Về ranh giới phân vùng, khi Chu Ân Lai nhắc đến giới tuyến 17, cả Võ Nguyên Giáp và Hồ Chí Minh đều cảm thấy ngỡ ngàng. Hồ Chí Minh nói với Võ Nguyên Giáp và Hồ Chí Minh: “Với so sánh lực lượng trên thực tế chiến trường hiện nay, ta đề ra vĩ tuyến 13 là hợp lý, vĩ tuyến 17 đối với ta là không thể chấp nhận, chí ít cũng phải dành được vĩ tuyến 16”[20]. Jean Lacouture mô tả nỗi “ấm ức” của Trưởng đoàn đàm phán VNDCCH: “Chung quanh một chiếc bàn lớn, ghế xô đẩy ngổn ngang, người ta thấy Eden và P.M.F (Pierre Mendès France- TG), Molotov và Chu Ân Lai đang bao quanh Phạm Văn Đồng. Phạm Văn Đồng mồ hôi nhễ nhại, mặt hốc hác đầy vẻ đau đớn nhìn vào bản đồ Đông Dương trước mặt: Lãnh thổ của Việt Nam cộng sản bị đẩy lùi dần từng cây số một về phía Bắc”[21]. Sau này, Phạm Văn Đồng cay đắng thốt lên: “Chúng tôi có thể giành được nhiều hơn, nhiều hơn nữa. Chúng tôi đã thoả thuận trước với Trung Quốc về mọi điều. Nhưng Chu Ân Lai đã có cuộc hội đàm bí mật với Mandès France và tất cả đều đã thay đổi”[22].
Ngay từ ngày ấy, những người cộng sản Việt Nam đã hoài nghi về khả năng một nền hòa bình đến sớm. Võ Nguyên Giáp lo lắng tiên liệu: “Pháp còn gần năm mươi vạn quân, lại thêm Mỹ giúp thì rất ít có khả năng hòa bình thống nhất Việt Nam”[23]
Với Quốc gia Việt Nam, tình hình còn tệ hại hơn nhiều. Tham gia Hội nghị, QGVN chỉ tồn tại một cách hình thức bên cạnh phái đoàn Pháp. Trong các buổi họp hẹp giữa Pháp và VNDCCH, đại biểu của QGVN không được mời tham dự dù với tư cách quan sát viên. Trong phiên họp toàn thể, chỉ có các trưởng phái đoàn Pháp và VNDCCH đưa ra quan điểm và thảo luận, sau đó Pháp thông báo mọi quyết định cho phái đoàn QGVN.
Ngày 17-7-1954, phái đoàn QGVN gửi Kháng nghị đến Pháp và Mỹ, phản đối Pháp đã không thông báo về những đề xuất được mang ra thảo luận – những đề xuất, như bản Kháng nghịkhẳng định: “Không hề đếm xỉa đến ý chí đoàn kết dân tộc muôn người như một của nhân dân Việt Nam”[24]. Phái đoàn QGVN yêu cầu: “Ngừng bắn phải đi kèm với giải trừ quân bị mọi lực lượng tham chiến tại Việt Nam; đặt Việt Nam dưới sự kiểm soát của Liên Hợp Quốc trong thời gian an ninh, trật tự, hòa bình từng bước được tái lập và hoàn tất (…). Cuối cùng, để nhân dân Việt Nam tự quyết định vận mệnh của mình thông qua bầu cử tự do”[25]. Bản Kháng nghị lưu ý: “Đặt một Việt Nam thống nhất dưới quyền kiểm soát của Liên Hợp Quốc thích hợp hơn là duy trì quyền lực ở một đất nước bị chia cắt và bị đẩy vào vòng nô lệ”[26]. Tuy nhiên, những kháng nghị của QGVN như được rót vào tai người điếc, không nhận được bất kỳ phản hồi nào.
Tại phiên họp toàn thể cuối cùng, Ngoại trưởng Trần Văn Đỗ “yêu cầu Hội nghị ghi nhận rằng Chính phủ quốc gia Việt Nam dành cho mình quyền hoàn toàn tự do hành động để bảo vệ quyền thiêng liêng của dân tộc Việt Nam trong công cuộc thực hiện thống nhất, độc lập và tự do cho xứ sở”[27]. Ngoại trưởng Trần Văn Đỗ tuyên bố: “Chính phủ Quốc gia Việt Nam long trọng phản đối cách ký kết Hiệp định cùng những điều khoản không tôn trọng nguyện vọng sâu xa của dân Việt”[28], yêu cầu chèn thêm vào bản Tuyên bố nội dung: “Hội nghị ghi nhận Tuyên bố của Chính phủ của Nhà nước Việt Nam về cam kết thực hiện và hỗ trợ mọi nỗ lực thiết lập một nền hòa bình thực sự và lâu dài tại Việt Nam; không sử dụng vũ lực chống lại các thủ tục để lệnh ngừng bắn có hiệu lực, trong khi Nhà nước Việt Nam vẫn bảo lưu sự phản đối được nêu lên ở Tuyên bố cuối cùng”[29]. Yêu cầu đã bị bác bỏ thẳng thừng. Thất vọng vì “người Pháp đã trơ trẽn và bất chấp luật lệ bán rẻ lợi ích của Quốc gia Việt Nam”[30], trả lời phỏng vấn báo chí, Trần Văn Đỗ tiết lộ: “Phái đoàn quốc gia Việt Nam đã không được biết về thoả thuận đình chiến. Từ khi đến Genève, phái đoàn không hề được hỏi ý kiến về điều kiện đình chiến, đường phân ranh và thời hạn Tổng tuyển cử… Những vấn đề này đều được thảo luận tại những phiên họp hẹp; do vậy, phái đoàn Quốc gia Việt Nam không thể bày tỏ quan điểm”[31]. Tức tưởi, chán nản, bất lực, từ Genève, Trần Văn Đỗ gửi điện xin từ chức.
Trước kết cục cuối cùng của Hội nghị Genève, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng QGVN Phan Huy Quát tuyên bố: “Chia cắt Việt Nam sẽ dẫn tới nguy cơ làm dấy lên cuộc chiến tranh giữa miền Bắc và miền Nam (…) Đình chiến và phân vùng sẽ dẫn đến một cuộc chiến tranh nguy hiểm hơn”[32]. Với quan điểm tương tự, Tướng Nguyễn Văn Hinh phát biểu: “Đình chiến và chia cắt lãnh thổ Việt Nam là một biện pháp tạm thời để ngăn chặn sự đổ máu, nhưng không thể chấm dứt chiến tranh. Và có thể, người Việt Nam sẽ phải đối mặt với một cuộc chiến tranh như ở Hàn Quốc, nơi quân đội của cả hai bên luôn đặt ngón tay lên cò súng”[33].
Căn cứ trên điều khoản “không bị ràng buộc bởi bất cứ hiệp ước nào do Pháp ký sau này” của Hiệp ước Traité D’indépendance Du VietNam (4-6-1954), QGVN tuyên bố không bị ràng buộc bởi Hiệp định Genève. Tuy nhiên, theo phân tích trong Official record của U.S. Senate Subcommittee, thì có ít nhất hai lý do khẳng định QGVN vẫn bị ràng buộc: 1- Chính phủ này chỉ sở hữu một vài thuộc tính của một chủ quyền đầy đủ; 2- Phụ thuộc vào Pháp về quốc phòng[34].
3- Nền hòa bình vỡ vụn
Hiệp định Genève đã không hoàn thành sứ mệnh của mình. Sau 8 phiên họp toàn thể và 23 phiên họp hẹp hết sức căng thẳng với những màn đấu trí, đấu lực gay gắt, những “lỗ hổng” trong Hiệp định Genève đã đặt Đông Dương trên bờ vực của một cuộc chiến tranh mới.
Ngay khi những tin tức của Hiệp định Genève và những điều khoản chuyển quân của nó được công bố, nhiều người miền Bắc rơi vào tình trạng lo âu, phấp phỏng. Sau khi Hiệp định Genève được ký kết, cuộc di cư của một bộ phận người miền Bắc bắt đầu. Đến năm 1956, khoảng 880.000 người đã di cư vào Nam, trong đó có 750.000 người Công giáo (chiếm 85% số lượng người di cư)[35]. Quyết định áp đặt mô thức Triều Tiên cho Việt Nam của các nước lớn đã dẫn đến cuộc “thiên di lịch sử”, gây nên cảnh ly tán của hàng trăm ngàn gia đình kẻ Bắc, người Nam. Nỗi đau chia cắt đã làm vỡ vụn nền hòa bình chưa kịp đến.
Trên bàn cờ của các nước lớn, cả VNDCCH và QGVN đều là những thực thể chính trị lẻ loi, không đủ sức thoát khỏi ảnh hưởng và những sắp đặt sẵn của các nước lớn đồng minh hoặc không đồng minh.
Đối với VNDCCH, lựa chọn ý thức hệ cộng sản, tin tưởng ở chủ nghĩa quốc tế vô sản, chưa đủ mạnh về quân sự, cô lập về ngoại giao… những yếu tố đó đan quyện, chi phối, dần dần dẫn đến sự phụ thuộc của Chính phủ Hồ Chí Minh vào Liên Xô và nhất là vào Trung Quốc. Sự phụ thuộc đó bắt đầu từ năm 1950 (khi Trung Quốc đẩy mạnh viện trợ và đồng ý gửi cố vấn quân sự, kinh tế – tài chính, tổ chức… giúp Việt Nam kháng Pháp), tích tụ và để lại hậu quả “nhỡn tiền” tại Genève – VNDCCH đã không thể đưa ra và thực hiện một chiến lược hiệu quả trên “đấu trường” giữa các nước lớn.
Tiến hành kháng chiến chống Pháp trong thế bị bao vây, cô lập, thiếu kinh nghiệm đàm phán, nhận thức chưa đúng, chưa đầy đủ về chính sách của các nước lớn[36], có một “niềm tin chân thực”, tương đối “ngây thơ” đối với đồng minh và đặc biệt bị xiết chặt bởi “vòng kim cô” ý thức hệ, VNDCCH đã không (hoặc không đủ tỉnh táo) xem xét, nghiên cứu phương án “đặt Việt Nam dưới sự kiểm soát của Liên Hợp Quốc” mà QGVN đưa ra. Bước trượt ấy rất có thể đã khiến cả hai miền Nam, Bắc lỡ một nhịp trên con đường hòa hợp.
Giúp đỡ nhiều mặt của Mao Trạch Đông cho cuộc kháng chiến chống Pháp đã khích lệ Chính phủ VNDCCH, tạo những hi vọng lớn lao về nền độc lập không xa; đồng thời, những điều đó đã khiến lãnh đạo VNDCCH không kịp nhận ra rằng, Trung Quốc đang “đầu tư” vào chiến tranh Đông Dương, biến Việt Nam thành lá chắn ngăn chặn đường tấn công và xâm nhập của Hoa Kỳ. Siêu cường không thể không có vệ tinh – Trung Quốc dần đưa Việt Nam vào vùng ảnh hưởng, vào quỹ đạo của Trung Quốc. Một Việt Nam giàu mạnh, độc lập với Trung Quốc, có quan hệ ngoại giao rộng rãi với nhiều nước nhất định sẽ “thoát Trung”, sẽ không thể là chư hầu – đó cũng là lý do Trung Quốc “sốt sắng” với giải pháp chia cắt Việt Nam, ủng hộ để Việt Nam rút quân khỏi Lào và Campuchia.
Cũng vì tin tưởng đồng mình, VNDCCH đã không thấy rằng, dường như mọi vấn đề về Đông Dương đã được các nước lớn sắp đặt và quyết định. I.V. Gaiduk bình luận: “Đến Moscow vào đêm trước của Hội nghị Genève, phái đoàn Việt Nam do Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Văn Đồng dẫn đầu đã không được thảo luận về phương thức, con đường giải quyết vấn đề Đông Dương, mà chỉ còn cách đồng ý với Liên Xô, Trung Quốc và phối hợp thực hiện những vấn đề về chiến thuật”[37]. Dưới áp lực của Liên Xô, Trung Quốc, dù cố giữ lập trường cứng rắn, nhưng cuối cùng, các yêu cầu đàm phán của VNDCCH buộc phải hạ thấp dần, chỉ có Chu Ân Lai có được “tất cả mọi thứ đã được tiên liệu và dự đoán trước”[38].
Cuối cùng, giải pháp chia cắt Việt Nam bằng lằn ranh mang tên “vĩ tuyến 17” đã không mang đến thậm chí là “nền hòa bình mong manh”. Hai miền đất nước, hai chế độ và 21 năm chiến tranh đằng đẵng… lịch sử Việt Nam ở thời điểm đó và cả sau này, bị chế định bởi “giải pháp” của những “người ngoài cuộc”. “Vị đắng” Genève còn rơi rớt đến bây giờ.

[1] Qian Jiang: Zhou Enlai and the Geneva Conference, Beijing: History of CPC Press, 2005p.23.
[2] Jean Pouget: Tướng H.Navarre với trận Điện Biên Phủ, Nxb. Công an Nhân dân, Hà Nội, tr. 314.
[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 8, tr.340.
[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 8, tr.340.
[5]Hồ Chí Minh: Thư gửi Đại tướng Võ Nguyên Giáp, ngày 22-12-1953, tài liệu lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
[6] Archimedes L. A. Patti: Tại sao Việt Nam, Nxb. Đà Nẵng, 2001, tr.826.
[7] Về phía Pháp, Điện Biên Phủ được bố trí 49 cứ điểm liên hoàn, có thể hỗ trợ nhau khi bị tiến công, có 17 tiểu đoàn bộ binh, đa số là lính Âu Phi thiện chiến, lính dù tinh nhuệ và 116 khẩu pháo, cối các loại, 10 xe tăng cùng các loại vũ khí, khí tài hiện đại khác như súng phun lửa, súng đại liên nhiều nòng, mìn đĩa, mìn napan, máy ngắm hồng ngoại…, hàng ngày được 50-60 máy bay vận tải tiếp tế từ 150 đến 200 tấn vật liệu chiến tranh và các đồ dùng quân sự. Về phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Khối lượng vật chất bảo đảm cho chiến dịch lên tới 20.000 tấn, trong đó có 1.200 tấn đạn, 1.783 tấn xăng dầu, 14.950 tấn gạo, 268 tấn muối, 577 tấn thịt, 1.034 tấn thực phẩm và 177 tấn vật chất khác; huy động hơn 260.000 dân công, trên 20 nghìn xe đạp thồ, 17.000 ngựa thồ, trên 11.800 thuyền bè mảng và 628 xe ô tô phục vụ vận chuyển hàng hoá, vũ khí đạn dược cho chiến dịch. Các Đại đoàn bộ binh 308, 304, 312, 316, Đại đoàn công pháo 351 được huy động cho chiến dịch (Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự:Lịch sử hậu cần kỹ thuật quân sự Việt Nam trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004, tr. 296, 279).
[8] South Vietnam A Political History 1954-1970, Keesing’s Research, Report (1970), p.3.
[9] Ngày 27-4-1954, Anh, Mỹ uỷ nhiệm Pháp gặp Liên Xô thỏa thuận về thành phần Hội nghị. Trong cơ cấu Hội nghị, Anh, Pháp, Mỹ loại VNDCCH. Nhờ sự nỗ lực của Liên Xô, ngày 2-5-1954, các nước chấp nhận sự có mặt của Việt Nam. Liên Xô cũng tỏ ý không phán đối nếu QGVN, Vương quốc Lào và Campuchia cử đại diện tham gia.
[10] Dẫn theo Qian Jiang: Zhou Enlai and the Geneva Conference, p.110
[11] Ibid, p.110.
[12] Burchett, George and Shimmin, Nick: Memoires of A Rebel Journalist: The Autobiography of Wilfred Burchett, University of New South Wales Press, Sydney, New South Wales, 2005, p.190.
[13] Nikita Khrushchev: Memoirs of Nikita Khrushchev, volume 3 statesman (1953–1964), Pennsylvania State University Press, 2006, p.501.
[14] Burchett, George and Shimmin, Nick: Memoires of A Rebel Journalist: The Autobiography of Wilfred Burchett, University of New South Wales Press, Sydney, New South Wales, 2005, p.190.
[15] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 8, Sđd, tr.475.
[16] Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 14, tr. 554
[17] The Pentagon Papers, Gravel Edition Volume 1, Chapter 5, “Origins of the Insurgency in South Vietnam, 1954-1960” (Boston: Beacon Press, 1971). Hiệp ước Traité D’indépendance Du VietNam có nội dung như sau: 1- Nước Pháp thừa nhận nước Việt Nam như là một quốc gia hoàn toàn độc lập có đủ mọi thẩm quyền công nhận bởi công pháp quốc tế; 2- Nước Việt Nam thay thế nước Pháp trong mọi quyền hành trong các hiệp ước, giao ước mà nước Pháp đã nhân danh nước Việt Nam mà ký kết trước đó về những khoản liên quan đến Việt Nam, cũng như không bị ràng buộc bởi bất cứ hiệp ước nào do Pháp ký sau này; 3- Nước Pháp cam kết trả lại mọi công vụ mà Pháp đang chuyên trách tại Việt Nam; 4- Hiệp ước này có hiệu lực kể từ ngày ký, hủy bỏ mọi văn kiện và quy định trước trái ngược với hiệp ước này.
[18] Hiệp ước Traité d’association Franco Vietnamienne thừa nhận Việt Nam thuộc Liên hiệp Pháp; Pháp và Việt Nam đều bình đẳng, hai bên hợp tác tại Hội đồng tối cao Liên hiệp Pháp; mọi xung đột, nếu có sẽ được giải quyết tại Hội đồng trọng tài do hai bên cử ra.
[19] Ranh giới tạm thời chia cắt đất nước vĩ tuyến 17 (thay cho vĩ tuyến 13 theo yêu cầu ban đầu) và thời hạn hai năm tổng tuyển cử (thay vì 6 tháng như đề nghị); VNDCCH phải rút hết quân đội khỏi Lào và Campuchia
[20] Võ Nguyên Giáp, Điện Biên Phủ: Điểm hẹn lịch sử, Nxb Quân đội nhân dân, 2000, tr.428.
[21] Jean Lacouture, Philippe Devillers: La Fin d’une guerre: Indochine 1954, Éditions du Seuil, 1960, p.311.
[22] Wilfred Burchett, The China Cambodia Viet Nam Triangle, London: Zed Press, 1981.
[23] Võ Nguyên Giáp, Điện Biên Phủ: Điểm hẹn lịch sử, Sđd, tr.429.
[24] The Pentagon Papers – U.S.-Vietnam Relations19451967, A Study Prepared by theDepartment of Defense.
[25]Ibid.
[26]Ibid.
[27] The Pentagon Papers, Gravel Edition, Volume 1, Chapter 3, , “The Geneva Conference, May-July, 1954”, (Boston: Beacon Press, 1971).
[28] Ibid.
[29]The Pentagon Papers – U.S.-Vietnam Relations19451967, Study Prepared by theDepartment of Defense.
[30] The Pentagon Papers, Gravel Edition, Volume 1, Chapter 3.
[31] Ibid.
[32] The Pentagon Papers, Gravel Edition, Volume 1, Chapter 5, Ibid.
[33] Ibid.
[34] Ibid.
[35] Linh Mục Trần Tam Tỉnh: Thập giá và lưỡi gươm, Nxb Trẻ Thành phố Hồ Chí Minh, 1988, tr.112.
[36] Việt Nam chưa đánh giá đúng ý đồ của Mỹ, cho rằng sự can thiệp của Mỹ vào Đông Dương là nhằm xâm lược Việt Nam, mà không biết rằng, bản chất sự can thiệp ấy là để ngăn chặn “làn sóng đỏ” mà Trung Quốc là đầu tàu. Vì thế, từ những năm cuối của cuộc chiến tranh Đông Dương trở đi, Việt Nam luôn xác định Mỹ là kẻ thù trực tiếp, nguy hiểm.
[37]А.О.Чубарьян, Н.И.Егорова: Холодная война. 1945—1963 гг. Историческая ретроспектива, Сб. Ст, ОЛМА-ПРЕСС, М. 2003, C.285.
[38] Chen Jian: China and the First Indo-China War, 1950-54, p.110.


 TRUYỆN HAY CUỐI TUẦN : Người Lính Nhỏ Mà Chính Khí Lớn VŨ TIẾN QUANG – Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ
 Trung Sĩ VŨ TIẾN QUANG Cái Bóng Của HOÀI VĂN VƯƠNG TRẦN QUỐC TOẢN hay Truyện Người Lính Nhỏ Mà Chính Khí Lớn VŨ TIẾN QUANG – 
Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ
 ( Bac Trần Đại Sỹ la ban hoc chung truong thieu sinh quan VNCH cung thoi voi cuu thu tuong VC ... Vo van Kiet truoc khi ong Kiet bo ra bung bien theo VC. Khong tin qua Phap gap Bac , Bac se ke cho ma nghe chuyen dai cua truong thieu sinh quan VNCH ) 
1(Trích trong bộ Lịch Sử Thiếu Sinh Quân Việt Nam)
Vũ Tiến Quang sinh ngày 10 tháng 9 năm 1956 tại Kiên Hưng, tỉnh Chương Thiện. Thân phụ là hạ sĩ địa phương quân Vũ Tiến Đức. Ngày 20 tháng 3 năm 1961, trong một cuộc hành quân an ninh của quận, Hạ Sĩ Đức bị trúng đạn tử thương khi tuổi mới 25. Ông để lại bà vợ trẻ với hai con. Con trai lớn, Vũ Tiến Quang 5 tuổi. Con gái tên Vũ thị Quỳnh Chi mới tròn một năm. Vì có học, lại là quả phụ tử sĩ, bà Đức được thu dụng làm việc tại Chương Thiện, với nhiệm vụ khiêm tốn là thư ký tòa hành chánh. Nhờ đồng lương thư ký, thêm vào tiền tử tuất cô nhi, quả phụ, nên đời sống của bà với hai con không đến nỗi thiếu thốn.
Quang học tại trường tiểu học trong tỉnh. Tuy rất thông minh, nhưng Quang chỉ thích đá banh, thể thao hơn là học. Thành ra Quang là một học sinh trung bình trong lớp. Cuối năm 1967, Quang đỗ tiểu học. Nhân đọc báo Chiến Sĩ Cộng Hoà có đăng bài: “Ngôi sao sa trường: Thượng-sĩ-sữa Trần Minh, Thiên Thần U Minh Hạ”, bài báo thuật lại: Minh xuất thân từ trường Thiếu Sinh Quân Việt Nam. Sau khi ra trường, Minh về phục vụ tại tiểu đoàn Ngạc Thần (tức tiểu đoàn 2 trung đoàn 31, sư đoàn 21 Bộ Binh) mà tiểu đoàn đang đồn trú tại Chương Thiện. Quang nảy ra ý đi tìm người hùng bằng xương bằng thịt. Chú bé lóc cóc 12 tuổi, được Trần Minh ôm hôn, dẫn đi ăn phở, bánh cuốn, rồi thuật cho nghe về cuộc sống vui vẻ tại trường Thiếu Sinh Quân. Quang suýt xoa, ước mơ được vào học trường này. Qua cuộc giao tiếp ban đầu, Minh là một mẫu người anh hùng, trong ước mơ của Quang. Quang nghĩ: “Mình phải như anh Minh”.
Chiều hôm đó Quang thuật cho mẹ nghe cuộc gặp gỡ Trần Minh, rồi xin mẹ nộp đơn cho mình nhập học trường Thiếu Sinh Quân. Bà mẹ Quang không mấy vui vẻ, vì Quang là con một, mà nhập học Thiếu Sinh Quân, rồi sau này trở thành anh hùng như Trần Minh thì…nguy lắm. Bà không đồng ý. Hôm sau bà gặp riêng Trần Minh, khóc thảm thiết xin Minh nói dối Quang rằng, muốn nhập học trường Thiếu Sinh Quân thì cha phải thuộc chủ lực quân, còn cha Quang là địa phương quân thì không được. Minh từ chối:
– Em không muốn nói dối cháu. Cháu là Quốc Gia Nghĩa Tử thì ưu tiên nhập học. Em nghĩ chị nên cho cháu vào trường Thiếu Sinh Quân, thì tương lai của cháu sẽ tốt đẹp hơn ở với gia đình, trong khuôn khổ nhỏ hẹp.
Chiều hôm ấy Quang tìm đến Minh để nghe nói về đời sống trong trường Thiếu Sinh Quân. Đã không giúp bà Đức thì chớ, Minh còn đi cùng Quang tới nhà bà, hướng dẫn bà thủ tục xin cho Quang nhập trường. Thế rồi bà Đức đành phải chiều con. Bà đến phòng 3, tiểu khu Chương Thiện làm thủ tục cho con. Bà gặp may. Trong phòng 3 Tiểu Khu, có Trung Sĩ Nhất Cao Năng Hải, cũng là cựu Thiếu Sinh Quân. Hải lo làm tất cả mọi thủ tục giúp bà. Sợ bà đổi ý, thì mình sẽ mất thằng em dễ thương. Hải lên gặp Thiếu-tá Lê Minh Đảo, Tiểu Khu trưởng trình bầy trường hợp của Quang. Thiếu Tá Đảo soạn một văn thư, đính kèm đơn của bà Đức, xin bộ Tổng Tham Mưu dành ưu tiên cho Quang.
Tháng 8 năm 1968, Quang được giấy gọi nhập học trường Thiếu Sinh Quân, mà không phải thi. Bà Đức thân dẫn con đi Vũng Tàu trình diện. Ngày 2 tháng 9 năm 1969, Quang trở thành một Thiếu Sinh Quân Việt Nam.
Quả thực trường Thiếu Sinh Quân là thiên đường của Quang. Quang có nhiều bạn cùng lứa tuổi, dư thừa chân khí, chạy nhảy vui đùa suốt ngày. Quang thích nhất những giờ huấn luyện tinh thần, những giờ học quân sự. Còn học văn hóa thì Quang lười, học sao đủ trả nợ thầy, không bị phạt là tốt rồi. Quang thích đá banh, và học Anh văn. Trong lớp, môn Anh văn, Quang luôn đứng đầu. Chỉ mới học hết đệ lục, mà Quang đã có thể đọc sách báo bằng tiếng Anh, nói truyện lưu loát với cố vấn Mỹ.
Giáo-sư Việt văn của Quang là thầy Phạm Văn Viết, người mà Quang mượn bóng dáng để thay thế người cha. Có lần thầy Viết giảng đến câu :
“Nhân sinh tự cổ thùy vô tử,
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh”
(Người ta sinh ra, ai mà không chết.
Cần phải lưu chút lòng son vào thanh sử).
Quang thích hai câu này lắm, luôn miệng ngâm nga, rồi lại viết vào cuốn sổ tay.
Trong giờ học sử, cũng như giờ huấn luyện tinh thần, Quang được giảng chi tiết về các anh hùng : Hoài Văn Vương Trần Quốc Toản, thánh tổ của Thiếu Sinh Quân, giết tươi Toa Đô trong trận Hàm Tử. Quang cực kỳ sùng kính Bảo Nghĩa Vương Trần Bình Trọng, từ chối công danh, chịu chết cho toàn chính khí. Quang cũng khâm phục Nguyễn Biểu, khi đối diện với quân thù, không sợ hãi, lại còn tỏ ra khinh thường chúng. Ba nhân vật này ảnh hưởng vào Quang rất sâu, rất đậm.
Suốt các niên học từ 1969-1974, mỗi kỳ hè, được phép 2 tháng rưỡi về thăm nhà, cậu bé Thiếu Sinh Quân Vũ Tiến Quang tìm đến các đàn anh trấn đóng tại Chương Thiện để trình diện. Quang được các cựu Thiếu Sinh Quân dẫn đi chơi, cho ăn quà, kể truyện chiến trường cho nghe. Một số ông uống thuốc liều, cho Quang theo ra trận. Quang chiến đấu như một con sư tử. Không ngờ mấy ông anh cưng cậu em út quá, mà gây ra một truyện động trời, đến nỗi bộ Tổng Tham Mưu Việt Nam, bộ Tư-lệnh MACV cũng phải rởn da gà! Sau trở thành huyền thoại. Câu chuyện như thế này:
Hè 1972, mà quân sử Việt Nam gọi là Mùa Hè Đỏ Lửa, giữa lúc chiến trường toàn quốc sôi động. Bấy giờ Quang đã đỗ chứng chỉ 1 Bộ Binh. Được phép về thăm nhà, được các đàn anh cho ăn, và giảng những kinh nghiệm chiến trường, kinh nghiệm đời. Quang xin các anh cho theo ra trận. Mấy ông cựu Thiếu Sinh Quân, trăm ông như một, ông nào gan cũng to, mật cũng lớn, lại coi trời bằng vung. Yêu cậu em ngoan ngoãn, các ông chiều…cho Quang ra trận. Cuộc hành quân nào mấy ông cũng dẫn Quang theo.
Trong môt cuộc hành quân cấp sư đoàn, đánh vào vùng Hộ Phòng, thuộc Cà Mau. Đơn vị mà Quang theo là trung đội trinh sát của trung đoàn 31. Trung đội trưởng là một thiếu úy cựu Thiếu Sinh Quân. Hôm ấy, thông dịch viên cho cố vấn bị bệnh, Quang lại giỏi tiếng Anh, nên thiếu úy trung đội trưởng biệt phái Quang làm thông dịch viên cho cố vấn là thiếu úy Hummer. Trực thăng vừa đổ quân xuống thì hiệu thính viên của Hummer trúng đạn chết ngay. Lập tức Quang thay thế anh ta. Nghĩa là mọi liên lạc vô tuyến, Hummer ra lệnh cho Quang, rồi Quang nói lại trong máy.
Trung đội tiến vào trong làng thì lọt trận điạ phục kích của trung đoàn chủ lực miền, tên trung đoàn U Minh. Trung đội bị một tiểu đoàn địch bao vây. Vừa giao tranh được mười phút thì Hummer bị thương. Là người can đảm, Hummer bảo Quang đừng báo cáo về Trung-tâm hành quân. Trận chiến kéo dài sang giờ thứ hai thì Hummer lại bị trúng đạn nữa, anh tử trận, thành ra không có ai liên lạc chỉ huy trực thăng võ trang yểm trợ. Kệ, Quang thay Hummer chỉ huy trực thăng võ trang. Vì được học địa hình, đọc bản đồ rất giỏi, Quang cứ tiếp tục ra lệnh cho trực thăng võ trang nã vào phòng tuyến địch, coi như Hummer còn sống. Bấy giờ quân hai bên gần như lẫn vào nhau, chỉ còn khoảng cách 20-30 thước.
Thông thường, tại các quân trường Hoa-kỳ cũng như Việt Nam, dạy rằng khi gọi pháo binh, không quân yểm trợ, thì chỉ xin bắn vào trận địa địch với khoảng cách quân mình 70 đến 100 thước. Nhưng thời điểm 1965-1975, các cựu Thiếu Sinh Quân trong khu 42 chiến thuật khi họp nhau để ăn uống, siết chặt tình thân hữu, đã đưa ra phương pháp táo bạo là xin bắn vào phòng tuyến địch, dù cách mình 20 thước. Quang đã được học phương pháp đó. Quang chỉ huy trực thăng võ trang nã vào trận địch, nhiều rocket (hoả tiễn nhỏ), đạn 155 ly nổ sát quân mình, làm những binh sĩ non gan kinh hoảng. Nhờ vậy, mà trận địch bị tê liệt.
Sau khi được giải vây, mọi người khám phá ra Quang lĩnh tới bẩy viên đạn mà không chết: trên mũ sắt có bốn vết đạn bắn hõm vào; hai viên khác trúng ngực, may nhờ có áo giáp, bằng không thì Quang đã ô-hô ai-tai rồi. Viên thứ bẩy trúng…chim. Viên đạn chỉ xớt qua, bằng không thì Quang thành thái giám.
Trung-tá J.F. Corter, cố vấn trưởng trung đoàn được trung đội trưởng trinh sát báo cáo Hummer tử trận lúc 11 giờ 15. Ông ngạc nhiên hỏi:
– Hummer chết lúc 11.15 giờ, mà tại sao tôi vẫn thấy y chỉ huy trực thăng, báo cáo cho đến lúc 17 giờ?
Vì được học kỹ về tinh thần trách nhiệm, Quang nói rằng mình là người lạm quyền, giả lệnh Hummer, thay Hummer chỉ huy. Quang xin lỗi Corter. Trung-tá J.F. Corter tưởng Quang là lính người lớn, đề nghị gắn huy chương Hoa Kỳ cho Quang. Bấy giờ mới lòi đuôi chuột ra rằng các ông cựu Thiếu Sinh Quân đã uống thuốc liều, cho thằng em sữa ra trận.
Đúng ra theo quân luật, mấy ông anh bị phạt nặng, Quang bị đưa ra tòa vì “Không có tư cách mà lại chỉ huy”. Nhưng các vị sĩ quan trong sư đoàn 21, trung đoàn 31 cũng như cố vấn đều là những người của chiến trường, tính tình phóng khoáng, nên câu truyện bỏ qua. Quang không được gắn huy chương, mà mấy ông anh cũng không bị phạt. Hết hè, Quang trở về trường mang theo kỷ niệm chiến đấu cực đẹp trong đời cậu bé, mà cũng là kỷ niệm đẹp vô cùng của Thiếu Sinh Quân Việt Nam. Câu truyện này trở thành huyền thoại. Huyền thoại này lan truyền mau lẹ khắp năm tỉnh của khu 42 chiến thuật : Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Chương Thiện. Quang trở thành người hùng lý tưởng của những thiếu nữ tuổi 15-17 !
Năm 1974, sau khi đỗ chứng chỉ 2 Bộ Binh, Quang ra trường, mang cấp bậc trung sĩ. Quang nộp đơn xin về sư đoàn 21 Bộ Binh. Quang được toại nguyện. Sư đoàn phân phối Quang về tiểu đoàn Ngạc Thần tức tiểu đoàn 2 trung đoàn 31, tiểu đoàn của Trần Minh sáu năm trước. Thế là giấc mơ 6 năm trước của Quang đã thành sự thực.
Trung đoàn 31 Bộ Binh đóng tại Chương Thiện. Bấy giờ tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng Chương Thiện là Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, tham mưu trưởng tiểu khu là Thiếu Tá Nguyễn Văn Thời. Cả hai đều là cựu Thiếu Sinh Quân. Đại-tá Cẩn là cựu Thiếu Sinh Quân cao niên nhất vùng Chương Thiện bấy giờ (36 tuổi). Các cựu Thiếu Sinh Quân trong tiểu đoàn 2-31 dẫn Quang đến trình diện anh hai Cẩn. Sau khi anh em gặp nhau, Cẩn đuổi tất các tùy tùng ra ngoài, để anh em tự do xả xú báp.
Cẩn bẹo tai Quang một cái, Quang đau quá nhăn mặt. Cẩn hỏi:
– Ê ! Quang, nghe nói mày lĩnh bẩy viên đạn mà không chết, thì mày thuộc loại mình đồng da sắt. Thế sao tao bẹo tai mày, mà mày cũng đau à?
– Dạ, đạn Việt-cộng thì không đau. Nhưng vuốt anh cấu thì đau.
– Móng tay tao, đâu phải vuốt?
– Dạ, người ta nói anh là cọp U Minh Thượng…Thì vuốt của anh phải sắc lắm.
– Hồi đó suýt chết, thế bây giờ ra trận mày có sợ không?
– Nếu khi ra trận anh sợ thì em mới sợ. Cái lò Thiếu Sinh Quân có bao giờ nặn ra một thằng nhát gan đâu ?
– Thằng này được. Thế mày đã trình diện anh Thời chưa?
– Dạ anh Thời-thẹo không có nhà.
Thiếu Tá Nguyễn Văn Thời, tham mưu trưởng Tiểu-khu, uy quyền biết mấy, thế mà một trung sĩ 18 tuổi dám gọi cái tên húy thời thơ ấu ra, thì quả là một sự phạm thượng ghê gớm. Nhưng cả Thời lẫn Quang cùng là cựu Thiếu Sinh Quân thì lại là một sự thân mật. Sau đó anh em kéo nhau đi ăn trưa. Lớn, bé cười nói ồn ào, như không biết tới những người xung quanh.
Bấy giờ tin Trần Minh đã đền nợ nước tại giới tuyến miền Trung. Sự ra đi của người đàn anh, của người hùng lý tưởng làm Quang buồn không ít. Nhưng huyền thoại về Trần Minh lưu truyền, càng làm chính khí trong người Quang bừng bừng bốc lên.
Tại sư đoàn 21 Bộ Binh, tất cả các hạ sĩ quan cũng như các Thiếu Sinh Quân mới ra trường, thường chỉ được theo hành quân như một khinh binh. Đợi một vài tháng đã quen với chiến trường, rồi mới được chỉ định làm tiểu đội trưởng. Nhưng vừa trình diện, Quang được cử làm trung đội phó ngay, dù hầu hết các tiểu đội trưởng đều ở cấp trung sĩ, trung sĩ nhất, mà những người này đều vui lòng. Họ tuân lệnh Quang răm rắp!
Sáu tháng sau, đầu năm 1975 nhờ chiến công, Quang được thăng trung sĩ nhất, nhưng chưa đủ một năm thâm niên, nên chưa được gửi đi học sĩ quan. Quang trở thành nổi tiếng trong trận đánh ngày 1-2-1975, tại Thới Lai, Cờ Đỏ. Trong ngày hôm ấy, đơn vị của Quang chạm phải tiểu đoàn Tây Đô. Đây là một tiểu đoàn được thành lập từ năm 1945, do các sĩ quan Nhật Bản không muốn về nước, trốn lại Việt Nam…huấn luyện. Quang đã được Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn giảng về kinh nghiệm chiến trường:
“Tây Đô là tiểu đoàn cơ động của tỉnh Cần Thơ. Tiểu đoàn có truyền thống lâu đời, rất thiện chiến. Khi tác chiến cấp đại đội, tiểu đoàn chúng không hơn các đơn vị khác làm bao. Nhưng tác chiến cấp trung đội, chúng rất giỏi. Chiến thuật thông thường, chúng dàn ba tiểu đội ra, chỉ tiểu đội ở giữa là nổ súng. Nếu thắng thế, thì chúng bắn xối xả để uy hiếp tinh thần ta, rồi hai tiểu đội hai bên xung phong. Nếu yếu thế, thì chúng lui. Ta không biết, đuổi theo, thì sẽ dẫm phải mìn, rồi bị hai tiểu đội hai bên đánh ép. Vì vậy khi đối trận với chúng, phải im lặng không bắn trả, để chúng tưởng ta tê liệt. Khi chúng bắt đầu xung phong, thì dùng vũ khí cộng đồng nã vào giữa, cũng như hai bên. Thấy chúng chạy, thì tấn công hai bên, chứ đừng đuổi theo. Còn như chúng tiếp tục xung phong ta phải đợi chúng tới gần rồi mớí phản công”.
Bây giờ Quang có dịp áp dụng. Sau khi trực thăng vận đổ quân xuống. Cả đại đội của Quang bị địch pháo chụp lên đầu, đại liên bắn xối xả. Không một ai ngóc đầu dậy được. Nhờ pháo binh, trực thăng can thiệp, sau 15 phút đại đội đã tấn công vào trong làng. Vừa tới bìa làng, thiếu úy trung đội trưởng của Quang bị trúng đạn lật ngược. Quang thay thế chỉ huy trung đội. Trung đội dàn ra thành một tuyến dài đến gần trăm mét. Đến đây, thì phi pháo không can thiệp được nữa, vì quân hai bên chỉ cách nhau có 100 mét, gần như lẫn vào nhau. Nhớ lại lời giảng của Cẩn, Quang ra lệnh im lặng, chỉ nổ súng khi thấy địch. Ngược lại ngay trước mặt Quang, khoảng 200 thước là một cái hầm lớn, ngay trước hầm hai khẩu đại liên không ngừng nhả đạn. Quang ghi nhận vị trí hai khẩu đại liên với hai khẩu B40 ra lệnh:
” Lát nữa khi chúng xung phong thì dùng M79 diệt hai khẩu đại liên, B40, rồi hãy bắn trả “.
Sau gần 20 phút, thình lình địch xả súng bắn xối xả như mưa, như gió, rồi tiếng hô xung phong phát ra. Chỉ chờ có thế, M79 của Quang khai pháo. Đại liên, B40 bị bắn tung lên, trong khi địch đang xung phong. Bấy giờ trung đội của Quang mới bắn trả. Chỉ một loạt đạn, toàn bộ phòng tuyến địch bị cắt. Quang ra lệnh xung phong. Tới căn hầm, binh sĩ không dám lại gần, vì bị lựu đạn từ trong ném ra. Quang ra lệnh cho hai khẩu đại liên bắn yểm trợ, rồi cho một khinh binh bò lại gần, tung vào trong một quả lựu đạn cay. Trong khi Quang hô :
– Ra khỏi hầm, dơ tay lên đầu ! Bằng không lựu đạn sẽ ném vào trong.
Cánh cửa hầm mở ra, mười tám người, nam có, nữ có, tay dơ lên đầu, ra khỏi hầm, lựu đạn cay làm nước mắt dàn dụa.
Đến đây trận chiến chấm dứt.
Thì ra 18 người đó là đảng bộ và ủy ban nhân dân của huyện châu thành Cần Thơ. Trong đó có viên huyện ủy và viên chủ tịch ủy ban nhân dân huyện.
Sau trận này Quang được tuyên dương công trạng trước quân đội, được gắn huy chương Anh Dũng Bội Tinh với nhành dương liễu. Trong lễ chiến thắng giản dị, Quang được một nữ sinh trường Đoàn Thị Điểm quàng vòng hoa. Nữ sinh đó tên Nguyễn Hoàng Châu, 15 tuổi, học lớp đệ ngũ. Cho hay, anh hùng với giai nhân xưa nay thường dễ cảm nhau. Quang, Châu yêu nhau từ đấy. Họ viết thư cho nhau hàng ngày. Khi có dịp theo quân qua Cần Thơ, thế nào Quang cũng gặp Châu. Đôi khi Châu táo bạo, xuống Chương Thiện thăm Quang. Mẹ Quang biết truyện, bà lên Cần Thơ gặp cha mẹ Châu. Hai gia đình đính ước với nhau. Họ cùng đồng ý : Đợi năm tới, Quang xin học khóa sĩ quan đặc biệt, Châu 17 tuổi, thì cho cưới nhau.
Nhưng mối tình đó đã đi vào lịch sử…
Tình hình toàn quốc trong tháng 3, tháng 4 năm 1975 biến chuyển mau lẹ. Ban Mê Thuột bị mất, Quân Đoàn 2 rút lui khỏi Cao Nguyên, rồi Quân Đoàn 1 bỏ mất lãnh thổ. Rồi các sĩ quan bộ Tổng Tham Mưu được Hoa Kỳ bốc đi. Ngày 29-4, trung đội của Quang chỉ còn mười người. Tiểu đoàn trưởng, đại đội trưởng bỏ ngũ về lo di tản gia đình. Quang vào bộ chỉ huy tiểu khu Chương Thiện trình diện Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn. Cẩn an ủi :
– Em đem mấy người thuộc quyền vào đây ở với anh.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, viên tướng mặt bánh đúc, đần độn Dương Văn Minh phát thanh bản văn ra lệnh cho quân đội Việt Nam Cộng-hòa buông súng đầu hàng. Tất cả các đơn vị quân đội miền Nam tuân lệnh, cởi bỏ chiến bào, về sống với gia đình. Một vài đơn vị lẻ lẻ còn cầm cự. Tiếng súng kháng cự của các đơn vị Dù tại Sài-gòn ngừng lúc 9 giờ 7 phút.
Đúng lúc đó tại Chương Thiện, tỉnh trưởng kiêm Tiểu Khu trưởng là Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn. Ông đang chỉ huy các đơn vị thuộc quyền chống lại cuộc tấn công của Cộng quân. Phần thắng đã nằm trong tay ông. Lệnh của Dương Văn Minh truyền đến. Các quận trưởng chán nản ra lệnh buông súng. Chỉ còn tỉnh lỵ là vẫn chiến đấu. Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn ra lệnh:
“Dương Văn Minh lên làm Tổng-thống trái với hiến pháp. Ông ta không có tư cách của vị Tổng Tư Lệnh. Hãy tiếp tục chiến đấu”.
Nhưng đến 12 giờ trưa, các đơn vị dần dần bị tràn ngập, vì quân ít, vì hết đạn vì mất tinh thần. Chỉ còn lại bộ chỉ huy tiểu khu. Trong bộ chỉ huy tiểu khu, có một đại đội địa phương quân cùng nhân viên bộ ham mưu. Đến 13 giờ, lựu đạn, đạn M79 hết. Tới 14 giờ 45, thì đạn hết, làn sóng Cộng quân tràn vào trong bộ chỉ huy. Cuối cùng chỉ còn một ổ kháng cự từ trong một hầm chiến đấu, nơi đó có khẩu đại liên. Một quả lựu đạn cay ném vào trong hầm, tiếng súng im bặt. Quân Cộng Sản vào hầm lôi ra hai người. Một là Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, tỉnh trưởng, kiêm tiểu khu trưởng và một trung sĩ mớí 19 tuổi. Trung sĩ đó tên là Vũ Tiến Quang.
Bấy giờ đúng 15 giờ.
Kẻ chiến thắng trói người chiến bại lại. Viên đại tá chính ủy của đơn vị có nhiệm vụ đánh tỉnh Chương Thiện hỏi:
– Đ.M. Tại sao có lệnh đầu hàng, mà chúng mày không chịu tuân lệnh?
Đại Tá Cẩn trả lời bằng nụ cười nhạt.
Trung sĩ Quang chỉ Đại Tá Cẩn:
– Thưa đại tá, tôi không biết có lệnh đầu hàng. Ví dù tôi biết, tôi cũng vẫn chiến đấu. Vì anh ấy là cấp chỉ huy trực tiếp của tôi. Anh ra lệnh chiến đấu, thì tôi không thể cãi lệnh.
Cộng quân thu nhặt xác chết trong, ngoài bộ chỉ huy tiểu khu. Viên chính ủy chỉ những xác chết nói với Đại Tá Cẩn:
– Chúng mày là hai tên ngụy ác ôn nhất. Đ.M. Chúng mày sẽ phải đền tội.
Đại Tá Cẩn vẫn không trả lời, vẫn cười nhạt. Trung sĩ Quang ngang tàng:
– Đại tá có lý tưởng của đại tá, tôi có lý tưởng của tôi. Đại tá theo Karl Marx, theo Lénine; còn tôi, tôi theo vua Hùng, vua Trưng. Tôi tuy bại trận, nhưng tôi vẫn giữ lý tưởng của tôi. Tôi không gọi đại tá là tên Việt Cộng. Tại sao đại tá lại mày tao, văng tục với chúng tôi như bọn ăn cắp gà, phường trộm trâu vậy? Phải chăng đó ngôn ngữ của đảng Cộng-sản ?
Viên đại tá rút súng kề vào đầu Quang:
– Đ.M. Tao hỏi mày, bây giờ thì mày có chính nghĩa hay tao có chính nghĩa?
– Xưa nay súng đạn trong tay ai thì người đó có lý. Nhưng đối với tôi, tôi học trường Thiếu Sinh Quân, súng đạn là đồ chơi của tôi từ bé. Tôi không sợ súng đâu. Đại tá đừng dọa tôi vô ích. Tôi vẫn thấy tôi có chính nghĩa, còn đại tá không có chính nghĩa. Tôi là con cháu Hoài Văn Vương Trần Quốc Toản mà.
– Đ.M. Mày có chịu nhận mày là tên ngụy không?
– Tôi có chính nghĩa thì tôi không thể là ngụy. Còn Cộng quân dùng súng giết dân mới là ngụy, là giặc cướp. Tôi nhất quyết giữ chính khí của tôi như Bảo Nghĩa Vương Trần Bình Trọng, như Nguyễn Biểu.
Quang cười ngạo nghễ:
– Nếu đại tá có chính nghĩa tại sao đại tá lại dùng lời nói thô tục vớí tôi? Ừ! Muốn mày tao thì mày tao. Đ.M. tên Cộng Sản ác ôn! Nếu tao thắng, tao dí súng vào thái dương mày rồi hỏi: Đ.M.Mày có nhận mày là tên Việt Cộng không? Thì mày trả lời sao?
Một tiếng nổ nhỏ, Quang ngã bật ngửa, óc phọt ra khỏi đầu, nhưng trên môi người thiếu niên còn nở nụ cười. Tôi không có mặt tại chỗ, thành ra không mường tượng ý nghĩa nụ cười đó là nụ cười gì? Độc giả của tôi vốn thông minh, thử đoán xem nụ cưòi đó mang ý nghĩa nào? Nụ cười hối hận ? Nụ cười ngạo nghễ? Nụ cười khinh bỉ? Hay nụ cười thỏa mãn?
Ghi chú :
Nhân chứng quan trọng nhất, chứng kiến tận mắt cái chết của Vũ Tiến Quang thuật cho tác giả nghe là cô Vũ Thị Quỳnh Chi. Cô là em ruột của Quang, nhỏ hơn Quang 4 tuổi. Lúc anh cô bị giết, cô mới 15 tuổi (cô sinh năm 1960). Hiện (1999) cô là phu nhân của bác sĩ Jean Marc Bodoret, học trò của tôi, cư trú tại Marseille.
Cái lúc mà Quang ngã xuống, thì trong đám đông dân chúng tò mò đứng xem có tiếng một thiếu nữ thét lên như xé không gian, rồi cô rẽ những người xung quanh tiến ra ôm lấy xác Quang. Thiếu nữ đó là Nguyễn Hoàng Châu. Em gái Quang là Vũ thị Quỳnh Chi đã thuê được chiếc xe ba bánh. Cô cùng Nguyễn Hoàng Châu ôm xác Quang bỏ lên xe, rồi bọc xác Quang bằng cái Poncho, đem chôn.
Chôn Quang xong, Châu từ biệt Quỳnh Chi, trở về Cần Thơ. Nhưng ba ngày sau, vào một buổi sáng sớm Quỳnh-Chi đem vàng hương, thực phẩm ra cúng mộ anh, thì thấy Châu trong bộ y phục trắng của nữ sinh, chết gục bên cạnh. Mặt Châu vẫn tươi, vẫn đẹp như lúc sống. Đích thân Quỳnh Chi dùng mai, đào hố chôn Châu cạnh mộ Quang.
Năm 1998, tôi có dịp công tác y khoa trong đoàn Liên Hiệp các viện bào chế Châu Âu (CEP= Coopérative Européenne Pharmaceutique) , tôi đem J.M Bodoret cùng đi, Quỳnh Chi xin được tháp tùng chồng. Lợi dụng thời gian nghỉ công tác 4 ngày, từ Sài-gòn, chúng tôi thuê xe đi Chương Thiện, tìm lại ngôi mộ Quang-Châu. Ngôi mộ thuộc loại vùi nông một nấm dãi dầu nắng mưa, cỏ hoa trải 22 năm, rất khó mà biết đó là ngôi mộ. Nhưng Quỳnh-Chi có trí nhớ tốt. Cô đã tìm ra. Cô khóc như mưa, như gió, khóc đến sưng mắt. Quỳnh-Chi xin phép cải táng, nhưng bị từ chối. Tuy nhiên, cuối cùng có tiền thì mua tiên cũng được. Giấy phép có. Quỳnh-Chi cải táng mộ Quang-Châu đem về Kiên Hưng, chôn cạnh mộ của ông Vũ Tiến Đức. Quỳnh-Chi muốn bỏ hài cốt Quang, Châu vào hai cái tiểu khác nhau. Tôi là người lãng mạn. Tôi đề nghị xếp hai bộ xương chung với nhau vào trong một cái hòm. Bodoret hoan hô ý kiến của sư phụ.
Ngôi mộ của ông Đức, của Quang-Châu xây xong. Tôi cho khắc trên miếng đồng hàng chữ:
“Nơi đây AET Vũ Tiến Quang, 19 tuổi,
An giấc ngàn thu cùng
Vợ là Nguyễn Hoàng Châu
Nở nụ cười thỏa mãn vì thực hiện được giấc mộng”
Giấc mộng của Quang mà tôi muốn nói, là: được nhập học trường Thiếu Sinh Quân, rồi trở thành anh hùng. Giấc mộng của Châu là được chết, được chôn chung với người yêu. Nhưng người ta có thể hiểu rằng: Quang thỏa mãn nở nụ cười vì mối tình trọn vẹn.
Paris ngày 13 tháng 4 năm 1999.
Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét