Thứ Bảy, 30 tháng 12, 2017

Quốc ngữ, chữ nước ta

Quốc ngữ, chữ nước ta
Trong những ngày cuối năm 2017, dư luận trong ngoài nước xôn xao về một dự án của một ông Tiến Sĩ tên là Bùi Hiền, cho rằng chữ quốc ngữ rườm rà, lỗi thời cần phải cải tiến. Khi bị dư luận trong nước chỉ trích, một thành viên của nhóm là tên là Tiến Sĩ Khoa Học Ngữ Văn Đoàn Hương đáp lại rằng:

“Không thể một nhóm quần chúng không hiểu biết ném đá!” và cương quyết bảo vệ dự án này. Sự kiện “ném đá” vào những kẻ chê bai chữ Quốc Ngữ này làm tôi nhớ lại một câu chuyện nhỏ liên quan đến tiếng Việt tại Mỹ.

Năm 2001, tôi được chỉ định đi dậy Anh Văn tại một trường trung học thuộc Học Khu Garden Grove. Điều hơi bất công cho ông Thầy mới đến là phải nhận một lớp gai góc gồm toàn học sinh thuộc loại “Nhất quỷ, nhì ma, thứ ba học trò”, trong đó một số lớn đã bỏ học đi bụi đời, nay mới trở lại trường lớp. Thầy Hiệu Trưởng đã dồn các học sinh loại này vào một lớp đặc biệt và giao cho Thầy, Cô nào có lá gan to thì đến dậy.

Khi tôi vừa trình diện, ông Hiệu Trưởng đã nói ngay: “Thầy có dám nhận dậy ở lớp này không? Toàn học trò thứ dữ không à!” Tôi chưa hiểu rõ vấn đề, nhưng vì là dân mới, nên cứ gật đầu, nhận đại.

Đúng như lời thầy Hiệu Trưởng nói, học sinh lớp 11 này toàn là thứ dữ, to lớn cồng kềnh. Có em nam sinh cao hơn tôi một cái đầu, em khác có bắp thịt tay gần bằng bắp chuối của tôi. Về phía nữ cũng thế, các em đã trưởng thành lồ lộ, tuy không sắc nước hương trời, nhưng đầy nữ tính quyến rũ. Vừa bước vào cửa lớp, một em nam sinh chận tôi lại, giơ tay ra. Tôi tưởng em muốn bắt tay tôi, nên cũng đưa tay ra, không ngờ, em luồn tay vào ngay túi áo vét tôi, và nói:

“Ông Thầy! Có cái gì trong túi của ông thế?”

Tôi nhẹ hất tay em ra, nhưng miệng vẫn mỉm cười, và nói đùa: “Hey! Em muốn làm trinh thám hả?” rồi bước vội vào trong. Đến sát bàn thầy giáo tôi mới quay lại, cười và tự giới thiệu mình. Sau đó, tôi bắt đầu làm quen với các em, hỏi tên từng học sinh, và cố nhớ những cái tên Mỹ không quen thuộc với người Việt mình một chút nào. Khi đến gần môt em nữ sinh có thân hình to lớn, em vẫy tay cho tôi lại gần và khoe với tôi hình một đứa bé chừng 2 tuổi. 

Thấy hình trẻ em, tôi buột miệng, nói ngay: “Bé là em út của em hả? Bé đẹp quá! Giống y hệt hình Thiên thần!” Cô bé mỉm cười, lắc đầu: “Không phải! Đó là con của em đó! Nó gần 2 tuổi rồi! em là người mẹ độc thân!” Tôi hơi giật mình, nhưng cố làm bộ chia vui với em, khen ngợi đứa bé vài câu xã giao rồi lảng qua chỗ khác.

Điều tôi muốn viết ở đây là có một câu hỏi của một em nam sinh làm tôi hơi buồn. Em  giơ tay hỏi: “Ông Thầy là người gì vậy?” Tôi trả lời: “Tôi là người Việt Nam!” Em hỏi tiếp: “Vậy chữ Việt của ông Thầy có giống hình con rắn không?”

Tôi ngạc nhiên, hỏi: “Tại sao em nói vậy?” Em nam sinh trả lời: “Vì em thấy mấy người Á châu khác viết chữ giống mấy con rắn, con rết, quẹo qua quẹo lại!” Tôi mỉm cười, giải thích: “Không phải như em nghĩ đâu! Chữ Việt Nam của chúng tôi cũng từ gốc La Tinh mà ra, giống như tiếng Anh của các em vậy, không có gì khác cả! Này nhé, tôi viết tên tôi cho các em xem.” Rồi tôi viết tên tôi lên bảng, và thêm câu: “Tôi yêu tiếng Việt của tôi như các em yêu tiếng Mỹ vậy!” và tôi chỉ cho các em từng chữ a, b, c… của tiếng Việt.

https://baomai.blogspot.com/

Các em học sinh nghe tôi giảng thì tỏ vẻ thích thú lắm, có em tập đọc tiếng Việt nghe rất tức cười. Từ giây phút đó, các em thân thiện với tôi một cách đặc biệt, nghe tôi giảng bài mà không phá như với những thầy, cô khác. Điều này được chứng minh là sau 2 tiết học, Thầy Hiệu Trưởng hớt hả đi tới lớp tôi, vẫy tôi ra và hỏi, giọng lo lắng: “Sao? Học trò có phá thầy không?” Tôi cười, trả lời: “Không! Các em ngoan lắm!” Thầy hiệu trưởng không tin, đứng lại xem tôi giảng bài một lúc thấy “mặt trận miền Tây vẫn yên tĩnh” thì Thầy lẳng lặng bước đi, trên khuôn mặt hiện rõ vẻ ngạc nhiên.

Câu chuyện ngắn trên, sở dĩ được viết lại, để chứng minh rằng chữ Quốc Ngữ, mà bây giờ thường gọi là chữ Việt, không phải là chữ viết “rắn, rết” mà là một vốn quý của dân tộc. Tiếng Việt, với căn bản La Tinh, đã làm cho sự liên kết trong văn hóa quốc tế dễ dàng vì đã giúp cho người ngoại quốc, dù không hiểu tiếng Viêt cũng có thể lõm bõm đọc được và giúp cho những ai muốn học tiếng Việt cũng có thể lãnh hội được những tinh hoa của dân tộc Việt một cách dễ dàng. Trong khi ấy, việc học chữ của các quốc gia Á Châu khác có dạng chữ chằng chịt, khó đọc, như chữ Hán, chữ Cam Bốt, chữ Thái Lan, chữ Đại Hàn, nhất là chữ Trung Đông...thì rất tốn thời gian, có thể nói là cực kỳ khó khăn. Điều không ngờ là chữ Việt hay chữ Quốc Ngữ (chữ viết của Tổ Quốc) lại do những vị tu sĩ ngoại quốc hợp với một số giáo hữu đạo Công Giáo người Việt biên soạn mà lại hoàn toàn thích hợp với người Việt. 

https://baomai.blogspot.com/

Người đầu tiên làm công việc La Tinh hóa chữ Việt để thay thế chữ Nôm là Linh mục Di Pina, người Bồ Đào Nha. Ông sống ở Hội An từ năm 1617 đến 1625, trong thời gian này, ông kiên tâm học tiếng Việt và bắt đầu soạn sách học chữ quốc ngữ bằng tiếng La Tinh. Tuy nhiên, công trình của Linh Mục Pina chưa được hoàn thiện và chưa được phổ biến rộng. Đến năm 1624, Giám Mục Alexander De Rhodes mới đến Hội An và với trí thông minh lạ lùng, ông đã học nói tiếng Việt chỉ trong vài tuần lễ. Sau đó, dựa theo sự nghiên cứu của Linh Mục Di Pina, Giám Mục Alexander De Rhodes đã tiếp tục công việc La Tinh Hóa Tiếng Việt, và mãi đến năm 1651, ông mới cho ra đời cuốn “Phép Giảng 8 Ngày” và bộ “Tự Điển Việt – Bồ - La Tinh”.

https://baomai.blogspot.com/

Từ đó, chữ quốc ngữ chính thức ra đời, và cũng từ đó, văn hóa Việt Nam được ghi chép lại và cho đến bây giờ, tiếng Việt đã trở thành một di sản Văn Hóa Quốc Tế, đã để lại cho thế giới những tác phẩm khổng lồ như bộ Chinh Phụ Ngâm của Bà Đoàn Thị Điểm và Cung Oán Ngâm Khúc của Nguyễn Gia Thiều (thế kỷ 18), hay Đoạn Trường Tân Thanh (thế kỷ 19) do Nguyễn Du viết. Rồi tuần tự, như một giòng suối mới khơi ngành về biển, văn hóa Việt Nam đã liên tục phát triển với rất nhiều nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ và những áng văn chương tuyệt thế: Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ, Trần Tế Xương, Tản Đà, Nguyễn Khuyến, Hồ Xuân Hương... nhiều không kể hết. Đến giữa thế kỷ 20 thì văn chương Việt Nam phát triển rực rỡ với hàng chục ngàn cuốn sách thơ, truyện, biên khảo, giáo dục, khoa học, nhất là bộ lịch sử đã được biên soạn lại để giảng dậy cho các học sinh hiểu rõ hơn về nước mình và yêu nước mình hơn.

Có hai điều đặc biệt về chữ Việt: Thứ nhất: qua các tác phẩm kể trên, tiếng Việt đã thể hiện được tính hồn nhiên, cởi mở của Dân tộc, tình tự quê hương thấm đậm, cũng như tính đạo đức vốn có từ ngàn năm xưa. Người đọc, dù là trẻ thơ hay các vị cao niên, đều thấy thấm đậm Hồn Dân Tộc trong tâm hồn mình. Chữ Việt lại rất dễ đánh vần, dễ đọc, dễ gây vận, tạo vần, thích hợp với sự phát âm của dân tộc Việt, cho nên việc giáo dục trẻ em cũng rất đơn giản, để từ đó, lớp trẻ lớn lên có tâm hồn phong phú về mọi phương diện và dễ phát triển tài năng cùng nhịp với thế giới. Thứ hai: không một dân tộc nào trên thế giới có thể so bì với nghệ thuật làm thơ, làm vè, viết câu hò, câu đối, ca dao, và tục ngữ của dân Việt. Hầu như tất cả những ai có đọc sách, đọc truyện đều có thể “xuất khẩu thành thơ”, hay làm vè có vần có điệu. Rồi hàng vạn câu ca dao, tục ngữ (không biết xuất xứ hay tác giả) được đọc lên để răn đời, giáo dục người, hoặc hướng dẫn phong tục, phương pháp làm nông, làm vườn, hay nghệ thuật làm quen trai gái…Hàng vạn câu tục ngữ chỉ ra cách sinh hoạt xã hội. Như thế, chữ Việt chính là Hồn Dân Tộc, là Lịch Sử, là Niềm Hãnh Diện của người Việt trên thế giới.

Một cách vắn tắt, chữ Việt hay chữ Quốc Ngữ có rất nhiều đặc điểm như sau: Vần, Vận, Phụ Âm, và văn chương Hán Việt.

1-Vần: gồm hai loại Vần:

Vần Bằng và Vần Trắc. Vần Bằng gồm dấu Huyền và không dấu. Vần Trắc gồm Sắc, Hỏi, Ngã, Nặng. Hai loại Vần này là căn bản làm cho thơ Việt Nam phong phú một cách lạ lùng, điều mà không một ngôn ngữ nào có được. Thí dụ như trong thơ lục bát:
https://baomai.blogspot.com/ 

Trong hai câu này, các chữ “quan, than, lời” là Vần Bằng. Chữ “lại” là Vần Trắc. Nếu đổi Vần của các chữ trên thì thơ sẽ bị triệt tiêu, thí dụ như:

https://baomai.blogspot.com/ 

Với thơ Song Thất Lục Bát:

https://baomai.blogspot.com/ 

Với những câu thơ trên, nếu đổi ngược Vận Bằng thành Trắc, hoặc ngược lại thì không còn thơ. Cũng thế, với thể thơ Tám Câu, Bẩy Chữ (Thất Ngôn Bát Cú):

https://baomai.blogspot.com/ 

Bài thơ này đã làm theo đúng Vần như sau: (T = Trắc, B = Bằng)

Như thế, thơ Việt lệ thuộc rất nhiều vào Vần.

2- Vận:

Qua một vài dẫn chứng kể trên, chúng ta đã thấy những câu thơ trên đều theo một quy luật nhất định vào Vận. Các câu ca dao dân giã miền Nam cũng phải theo quy luật trên:

https://baomai.blogspot.com/ 

Chữ “Mương” và chữ “Thương” cùng một Vận làm cho câu ca dao này linh động và gây nhiều cảm xúc cho người nghe. Bên cạnh thơ Lục Bát, hay ca dao, các thể thơ Song Thất Lục Bát hay Thất Ngôn Bát Cú cũng thế, nếu không có Vận thì không phải Thơ. Các câu vè dân gian, tuy tác giả là những tâm hồn đơn giản, nhưng vẫn theo luật của Vận:

https://baomai.blogspot.com/ 

3-Phụ Âm:

Đây là phần quan trọng nhất trong chữ Việt, đặc biệt là Phụ Âm Kép: ng, tr, gi, nh, kh…

Những phụ âm kép đã làm cho chữ Việt khác hẳn ngôn ngữ quốc tế, vì đôi khi, có thế phát ra những âm tương tự, nhưng nghĩa lại hoàn toàn khác hẳn:

Da người -gia đình, chương trình - trương phình, trai tân - chai lọ, tranh vẽ - chanh -quả, dòng sông - giòng dõi, dáng điệu - giáng trần, chú trọng - trú đóng, trọc phú - chọc - ghẹo, trở lại - chở xe, chí khí - trí tuệ, vợ chồng - trồng cây, bên trong - chong đèn, ghì xiết - gì vậy, sương xuống – xương xống… Lại có những chữ cùng âm mà đi với nhau nhưng hoàn toàn khác nhau: “chàng trai chai mặt”, hoặc cùng một chữ mà lại khác nghĩa nhau: trăn trở - con trăn…

4- Chữ quốc ngữ và chữ Hán nôm:

Từ những thế kỷ trước, chữ quốc ngữ vẫn được sử dụng để phiên âm chữ Hán sang chữ Việt một cách toàn vẹn. Việc chuyển tiếng Hán sang âm Việt cũng dễ dàng, không một chút khó khăn. Thí dụ như bài Hoàng Hạc Lâu:

https://baomai.blogspot.com/ 

Những chữ “du du, lịch lịch, thê thê” giữ nguyên âm Hán Việt gợi cho người đọc những tình cảm xúc động lạ lùng. Như vậy, Chữ Việt hay chữ Quốc Ngữ, phải nói là phong phú và tuyệt diệu. Nhưng, rất tiếc, trong năm 2017, lại có nhóm “nửa người, nửa ngợm, nửa đười ươi” là Bùi Hiền, Đoàn Hương, Lê Đức Luận, Nghiêm Thúy Hằng lại hăng hái cổ võ cho “chữ Việt mới” do nhóm này biên soạn. Thay vì chỉnh đốn lại cách dùng chữ ẩu tả từ Bộ Giáo Dục, Bộ Văn Hóa xuống đến dân chúng thì họ lại đi soạn ra kiểu chữ mới kỳ quặc.

https://baomai.blogspot.com/

Hiện nay, những cách dùng chữ bậy bạ rất nhiều. Thí dụ: Đi Phản Phúc (Đi Phản Ảnh và Phúc Trình), đi tham quan chợ, động thái (hành động và thái độ), giải phóng mặt bằng, sự cố kỹ thuật, ăn tranh thủ, ngủ khẩn trương, phát biểu ấn tượng, đăng ký nghĩa vụ quân sự, siêu sao, tờ rơi, hàm lượng trí thức, hình ảnh chất lượng, thủ trưởng, văn nghệ chủ đạo, hát đôi, hát tốp, bức xúc, xưởng đẻ, phòng kinh nguyệt (phòng vệ sinh phụ nữ)…và hàng ngàn chữ “không thể hiểu nổi” làm cho văn hóa Việt dần dần mang một sắc thái ngớ ngẩn và thô lậu.

Nhóm người, này đã huyênh hoang là từng nghiên “kíu” cả thập niên cho việc viết chữ Việt mới. “Sáng kiến” của họ như sau:

-Thêm: F,W, Z.

-Bỏ: Đ, Th, Ph, Kh, Ngh, Gh, Gi, Qu, Ch, Tr…

-Thay thế: thay Ch bằng C, thay Đ bằng D, thay Ph bằng F, thay C bằng K, thay Ng bằng Q, thay Ngh bằng R, thay S, X bằng S, thay Th bằng W, thay D bằng Z, thay Nh bằng N, thay Tr bằng C….

Thí dụ: Những câu châm ngôn vẫn được treo trên tường của các lớp học, sẽ được viết như sau:

“Dản Kộn Sản vĩ dại nà cim cỉ nam suên suốt”, “Wủ tướn Quễn Sân Fuck”, “Tổn bí tư Quễn Fú Cọn”…

Riêng câu bùa chú từ nhiều năm nay: “Hồ Chủ Tịch vĩ đại sống mãi trong quần chúng” mà được những em bé người dân tộc tập đọc sẽ là “Hồ củ tịc vì dái són mãi con qần cún…a aa ta…”

Thông báo cấm tiểu bậy sẽ được viết như sau: “cấm dái”. Nhiều biểu ngữ viết trên tường: “nười nười thi dua. Nà nà thi dua”. Bản tên trường Trương Công Định: “Cường dươn côn dịn”…

Đến lúc ấy, học trò lớp Một sẽ tập đánh vần như sau:

“Cờ u cu hỏi Chủ. Tờ i tơ cờ Tịch. Hờ ô hô huyền Hồ. Cờ i ki sắc Chí. Mờ i mi nờ Minh…”

Với cách đánh vần như trên, nhất định 90 phần trăm học sinh lớp Một sẽ bị điên nặng, vừa đi vừa bốc phân gà cho vào miệng, 10 phần trăm còn lại thì sẽ nuốt cả bút chì. Các Thầy, Cô giáo cũng “tẩu hỏa nhập ma”, có thể vừa giảng bài vừa tiểu ra quần…

Kết quả kinh hoàng nhất là nếu “tối kiến” này được áp dụng, thì đến đời con cháu chúng ta, sau khi chúng ta ra đi, sẽ đọc sách giáo khoa mới với loại chữ điên khùng mới, và như vậy, chúng hoàn toàn mù tịt về lịch sử ngàn năm chống Tầu! Chúng sẽ coi tất cả các áng văn chương từ xưa tới nay, các cuốn tiểu thuyết, thơ, biên khảo…là giấy đun bếp. Điều mà chính những cái đầu “vĩ dái” đó cũng sẽ bị thiệt hại vì cái bằng Tiến sĩ “mua, xin” ngày hôm nay của chúng sẽ không còn sử dụng và chúng sẽ thành kẻ vô học. Có thể, lúc đó, Đảng sẽ tội nghiệp chúng mà tặng cho cái bằng được viết như sau: “Tiên si nữ văn Niêm thúi hằn” thay vì “Tiến sĩ ngữ văn Nghiêm Thúy Hằng” mà chúng đã có. Lúc đó, các đại cố vấn Tầu sẽ khuyến cáo người dân nên học tiếng Tầu cho dễ nhớ. Và như vậy, không cần một tiếng súng, nước Việt Nam hùng vĩ từ ngàn năm sẽ biến thành quận huyện của Tầu! Thật là một âm mưu vô cùng thâm độc của những kẻ bán nước cầu vinh, không có “đầu óc” mà chỉ có 3 cái “đầu gối” này.

https://baomai.blogspot.com/

Vậy, để có thể bảo vệ được chữ Việt, chúng ta cần đoàn kết từ hải ngoại về đến trong nước, từ thế hệ già chuyển tiếp thế hệ trẻ, đồng loạt lên tiếng chống đối việc soạn ra loại chữ “phản quốc” này. Có như thế mới bảo vệ được giòng giống Việt có hơn 4000 năm văn hiến.


CHIẾN LƯỢC XÓA TIẾNG VIỆT 

Thứ Tư, 27 tháng Mười Hai năm 2017 20:45
Tác giả: NGUYỄN HOÀNG HÂN (Viện Nghiên Cứu Tài Nguyên Biển Đông)
Flag-Pins-China-Vietnam
Ngày 20-11-2017, giáo sư tiến sĩ Bùi Hiền, 83 tuổi, tung ra một cuốn sách “Cải Tiến Tiếng Việt” xử dụng tiếng Việt Mới. 
Một loại tiếng Việt Hán hoá, phiên âm theo tiếng Tàu Bắc Kinh (tổng hợp gồm đơn âm Quan Thoại và Bạch Thoại). 

Nói cho dễ hiểu hơn, đây là một kiểu chữ Tàu áp dụng riêng cho người Việt Nam vào những thập niên sắp tới, phiên âm từ tiếng Tàu, nhằm địa phương hoá ngôn ngữ, tương tự như tiếng Tàu Quảng Đông, Hồ Nam, Tây Tạng, Tân Cương, Nội Mông ….trong thời gian Tự Trị trước khi sát nhập.
Quyển sách dầy 2000 trang, ông nói là do ông mất đúng 20 năm để biên soạn được Bộ Giáo Dục CS Việt Nam cho xuất bản. 
Tại Việt Nam, rải một tờ bươm bướm A4, quảng cáo dầu cù là hay thuốc xổ cao đơn hoàn tán cũng phải xin phép công an.
 Huống gì một công trình cải đổi từ tiếng Việt chuyển sang tiếng Tàu. Nếu không được sự uỷ nhiệm của Đảng, bà cố nội của ông Bùi Hiền cũng không dám làm điều nầy. 
Đây là một chiến dịch quy mô được phát động có kế hoạch, có âm mưu, có chiến lược, phổ biến rộng rãi để chuẩn bị tư tưởng người Việt nhằm tránh sự ngỡ ngàng một ngày kia không xa lắm, tiếng Việt sẽ bị xoá bỏ hẳn hòi.

Người ta tạo ra một thứ tiếng Tàu riêng cho từng vùng, từng khu vực, mục đích đánh lừa một dân tộc trước khi tiêu diệt ngôn ngữ của dân tộc đó, đồng hoá dân tộc đó một cách êm thắm do người bản xứ lãnh đạo, chỉ huy và thực thi phương thức sát nhập trong thời hạn 60 năm bắt đầu năm 2020, hoàn tất vào năm 2080.
 Lúc đó, Việt Nam chỉ còn là một tỉnh lỵ.

Ông Bùi Hiền nói láo, Đảng cũng nói lộn luôn!  
“Bộ Chữ Cải Tiến Tiếng Việt ”  nầy hoàn toàn do “Cục Ngôn Ngữ Trung Quốc”  mà Cục Trưởng là giáo sư Từ Hướng Hòa ( con trai thứ ba của Thống Chế Từ Hướng Tiền) soạn thảo xong vào tháng 3 năm 1998, thời kỳ Giang Trạch Dân làm Tổng Bí Thư (1989-2002) . 

Bây giờ đã đến lúc ra lệnh Nhà Nước VN có bổn phận thi hành nhiệm vụ hướng dẫn người Việt đi từ từ vào con đường đồng hoá cũng như hội nhập vào xã hội của “Trung Quốc”  một cách “dịu dàng” ôn hòa , tự nguyện dâng hiến đất nước của mình trở thành một tỉnh lỵ của “ Trung Quốc” !.
Uông Dương (cháu nội Uông Tinh Vệ, Tổng Thống Trung Hoa Dân Quốc Nam Kinh (1940-1944), về sau bắt tay với Nhật rồi hợp tác với Mao Trạch Đông. 

Người kế nhiệm Uông Tinh Vệ là Tưởng Giới Thạch. Người con trai út của Uông Tinh Vệ là Uông Triệu Quang, làm cận vệ cho Mao Trạch Đông hồi 17 tuổi, đến năm 40 tuổi giữ chức “ Cục Trưởng Cục Bảo Vệ Mao Chủ Tịch”. 
Đứa con trai trưởng của Uông Triệu Quang là Uông Dương, đệ tử ruột Tập Cận Bình, Uỷ Viên Thường Vụ Bộ Chính Trị , Phó Thủ Tướng Quốc Vụ Viện và kiêm luôn 5 chức vụ :

 1- Tổ Trưởng Tổ Công Tác Điều Phối Tân Cương
 2- Tỗ Trưởng Tổ Công Tác Điều Phối Tây Tạng 
3- Tổ Trưởng Tổ Công Tác Điều Phối Nội Mông 
4- Tổ Trưởng Tổ Công Tác Điều Phối Đài Loan 
5- Tổ Trường Tổ Công Tác Điều Phối Việt Nam. Nói cách khác, Uông Dương là “Chủ Nhiệm Đô Hộ Phủ” có thẩm quyển tuyệt đối về vận mệnh các quốc gia vừa nêu trên.

Cách đây 1 năm, lúc 16 giờ chiều, ngày 12-1-2017, tại Sảnh Đường Nhân Dân Bắc Kinh, ông Nguyễn Phú Trọng đã ký “15 Hiệp Ước” có tính cách lệ thuộc và thần phục Bắc Kinh. 
Nhưng Hiệp Ước thứ 16 thì không ký trên văn bản mà ký bằng miệng, tức “ thoả hiệp ngầm”. 
Đó là văn kiện “Cải Tiến Mẫu Tự Tiếng Việt”  thành âm điệu tiếng “Trung Quốc“  do Uông Dương trao tận tay ông Nguyễn Phú Trọng. 

Theo chỉ thị của “Trung Quốc”, Bộ Giáo Dục CS Việt Nam sẽ dạy “tiếng Việt Hán Hoá“ nầy cho bậc tiểu học vào năm 2023, bậc trung học phổ thông vào năm 2026 và bậc đại học vào năm 2030 !
Năm 1969, Chu Ân Lai thông báo với Lê Duẩn là “Trung Quốc “ đang có kế hoạch “bang giao” với Hoa Kỳ , yêu cầu VN hãy ở “thế thủ” , dùng giải pháp chính trị hơn là quân sự , không nên liên tục “tấn công” Miền Nam. 

Tháng 3-1970, Lê Duẩn sang yết kiến Mao Trạch Đông tại Hồ Nam (quê hương của Mao).
 Trong cuộc gặp gỡ nầy, Mao Trạch Đông hỏi rất xỏ lá :”Có phải trong lịch sử, người Việt Nam từng đánh bại quân nhà Nguyên Mông Cổ ?”. 
Lê Duẩn khiêm tốn đáp: “ Dạ, thưa phải” . 
Mao Trạch Đông: “ Đó là chuyện ngày xưa . Còn chuyện ngày nay và ngày sau thì tôi muốn di dân 500 triệu người Trung Quốc của tôi định cư toàn vùng Đông Nam Á  và Việt Nam là bàn đạp trong chiến dịch di dân của người Trung Quốc, đồng chí nghĩ sao ?” 
 Lê Duẩn trả lời; “Đồng chí Chủ Tịch muốn gì cũng được, miễn là đừng đẩy Việt Nam vào đường cùng: bằng pháo binh, thiết giáp và tên lửa”.

Mao Trạch Đông hỏi tiếp: “Muốn xử dụng Việt Nam làm bàn đạp tiến xuống Đông Nam Á, không áp dụng chiến tranh thì chỉ còn một cách duy nhất là hai nước  phải “hợp tác” với nhau thôi.”

 Ý nghĩa của hai chữ “hợp tác”, Lê Duẩn hiểu hết chứ ! Hiểu mà không thi hành là dựa vào lưng Nga Sô. 
Vì vậy, ngày 17-2-1979, Đặng Tiễu Bình chỉ thị Đại Tướng Dương Đắc Chí và Đại Tướng Hứa Thế Hữu chỉ huy 600 ngàn quân, 400 thiết giáp, 2200 khẫu đại pháo 122 ly tràn qua biên giới tàn phá 6 tỉnh lỵ miền Bắc “dạy cho Việt Nam một bài học”. 
Và Đặng Tiểu Bình nóng mặt. gấp rút cho thực hiện chính sách “Tứ Đại Canh Tân” .

Lê Duẩn chết ngày 10-7-1986 (79 tuổi). Nguyễn Văn Linh lên thay thế  chức Tổng Bí Thư từ ngày 18-12-1986 đến ngày 28-6-1991, Nguyễn Văn Linh triệt để “hợp tác” với Bắc Kinh qua “thoả hiệp ngầm” ký tại Thành Đô (Tứ Xuyên) ngày 4-9-1990, trong đó có 10 điều khoản kê khai rõ ràng:

1-  Sát nhập đất liền (dư luận nghĩ sai là VN nhượng đất, nhượng lãnh hải . Sự thật sát nhập dần dần) 
2. Sát nhập biển .
3-Sát nhập kinh tế  
4- Sát nhập quốc phòng 
5- Sát nhập an ninh 
6-Sát nhập gián điệp 
7- Sát nhập tình báo 
8- Sát nhập di dân 
9- Sát nhập văn hoá  
10- Trước khi sát nhập sẽ có thời hạn 17 năm sát nhập ngôn ngữ 

Năm 42, Hán Quang Vũ Đế Lưu Tú hạ lệnh Thống Tướng Mã Viện thống lảnh 20 ngàn quân sang xâm lăng Việt Nam.

 Giao chiến lâu ngày, quân Hai Bà Trưng thiếu trang bị và kinh nghiệm không chống cự nổi đạo quân thiện chiến của Mã Viện. 
Sau khi chiến thắng Hai Bà Trưng, Mã Viện xử chém 1/3 dân số Việt Nam và tru di tam tộc các dòng họ Trưng, Thi, Đô, Lá, Thiều, Ngọc …. 
Cho nên, Việt Nam không còn những dòng họ nầy... Mã Viện tâu lên vua Lưu Tú ( người sáng lập nhà Đông Hán ) rằng : 
“Việt Nam có luật lệ riêng, có phong tục riêng, có tiếng nói khác với nhà Hán, muốn đồng hoá chúng nó thì phải xoá ngôn ngữ chúng nó.” 

Nhưng một mặt người Việt “đánh du kích chiến” ròng rã hàng trăm năm, đến năm 939 Ngô Quyền tuyên bố độc lập. 
Một mặt, giả vờ hợp tác với các Thái Thú Tàu, học chữ Hán, viết chữ Hán, nhưng khi nói chuyện thì nói bằng tiếng nói của nước mình. 
Không ai dám gọi là tiếng “Nam =An Nam” đọc trại thành tiếng “Nôm”.. 
Kiên trì giữ vững phong tục, luật lệ, tiếng nói của dân tộc mình nên Việt Nam là quốc gia độc nhất trong 100 Việt (Bách Việt ) không bị Tàu đồng hoá, trường tồn trên 4000 năm nay.

Nhà văn hoá Phạm Quỳnh, trước khi bị Cộng Sản xử đập đầu bằng búa tạ cùng với ông Ngô Đình Khô (anh ruột Tổng Thống Ngô Đình Diệm), Ngô Đình Huân (con trai của ông Ngô Đình Khôi) tại rừng Hắc Thú (Huế) tháng 8 năm 1945 , để lại câu nói lịch sử:
 “ Tiếng Việt còn, nước Ta còn. Tiếng Việt mất, nước ta sẽ không còn”. 
Văn hào Voltaire cũng có nói: “ Tổ quốc chính là điểm mà trái tim chúng ta buộc vào .”

Tiếng nói bị xoá mất, dân tộc sẽ mất theo! 
Bởi vì, tiếng nói làm nên con người. 
Con người dựng thành tổ quốc. 
Ngôn ngữ không còn, con người biến thành nô lệ và tổ quốc sẽ bị diệt vong, bị xoá tên trên bản đồ thế giới, trái tim vỡ nát, nước mắt sẽ chảy thành sông, vì: “ Nước đi mãi không về cùng non” (Tản Đà).




Thứ Năm, 28 tháng 12, 2017

Bỏ Rơi Hay Phản Bội VNCH

Cuối cùng, sau 30-4-1975 Mỹ mở chiến dịch đổ tội làm mất nước cho Tổng Thống Thiệu để cho người ta không oán hận Mỹ đã bỏ rơi VNCH. Giờ đây đã 40 năm trôi qua, nếu người Mỹ không lên tiếng giải oan cho Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, thì cũng nên trả lại sự thật cho lịch sử.
 
-------- Forwarded Message -------- 
 
Rất hay, không nên bỏ qua.
 
TBCC.

 
 
 
nhanvat chu
                                                        kiss
 
* Ngày 29-9 năm nay đã là ngày giỗ thứ 14 của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Cho tới trước khi chết Ông vẫn cúi đầu nhận chịu trách nhiệm đã làm cho mất nước, một lỗi lầm quá to lớn mà cá nhân một người không thể nào gánh vác. Nếu có một người nào đó đứng ra nhận chịu thì quả là vô lý, thế nhưng Ông Nguyễn Văn Thiệu đã làm.
I – PHẢI CHĂNG MỸ BỎ RƠI?
Kể từ ngày lập quốc, nước Mỹ thực sự sụp đổ vào năm 1975 với 3 triệu cựu chiến binh tại chiến trường Việt Nam, 58 ngàn người đã chết, và 3.000 quân nhân còn mất tích. Xã hội Mỹ phân hóa trầm trọng với tranh cãi đổ lỗi cho nhau.
Chính vì vậy mà những người quân nhân VNCH không bao giờ động chạm tới nỗi đau của người bạn chiến đấu Mỹ, họ đã làm hết sức của họ rồi, họ đã phải chết tới 58.000 người và đã hao tốn 300 tỉ USD, lại còn phải nuôi 3 triệu cựu chiến binh Mỹ mà người nào cuộc đời cũng tan nát do bị khủng hoảng, bị thất bại vì không thể trở lại trường để làm lại cuộc đời.
Hai chữ “Bỏ Rơi” là do BBC và RFI dùng để xoa dịu sự oán hận của người Việt sau khi Mỹ cắt ông tiếp huyết cho VNCH. “Bỏ Rơi Đồng Minh” khác với “Phản Bội Đồng Minh”. Bỏ Rơi có nghĩa là tôi thích thì tôi giúp, khi thấy mệt mõi quá thì tôi không giúp nữa. Còn Phản Bội là phỉnh gạt, lừa đảo. Cho nên người Mỹ muốn nhận là họ Bỏ Rơi VNCH còn hơn là nhận Phản Bội VNCH.
Ⅱ – Frank Snepp, THÁNG 3 NĂM 1973.
Năm 1968 anh sinh viên Frank Snepp quyết định làm đơn xin đầu quân vào CIA để tránh khỏi phải đi lính và chiến đấu tại VN. Năm 1969 Snepp bắt đầu làm viêc tại chi nhánh CIA tại Sài Gòn trong tư thế một nhân viên mới vào nghề. Năm 1971 ông trở về Trung tâm CIA tại Mỹ với nhiệm vụ phân tích những tin tức thu thập từ báo chí của Bắc Việt.
Đến năm 1972 ông bị đày đi VN vì tội đã báo trực tiếp cho Tòa Bạch Ốc một thông tin ông đọc được trên báo của Hà Nội mà không qua các xếp lớn của CIA. Nhiệm vụ lần thứ hai của Frank Snepp tại Việt Nam là đọc báo và nghe đài phát thanh của CSVN và VNCH để trình cho Polgar, trưởng CIA tại Sài Gòn, những tin nào mà ông ta thấy đáng quan tâm.
Sau biến cố 1975 Frank Snepp quyết định viết thành sách về những gì ông chứng kiến trong vai trò một nhân viên CIA làm việc tại VN trong giai đoạn Hoa Kỳ cuốn cờ ra khỏi Việt Nam. Nhờ đó ông nhanh chóng trở thành nhân chứng sống duy nhất dám tiết lộ những bí mật mà một nhân viên CIA không được phép tiết lộ.
CIA đã đưa ông ra tòa vì ông đã hành động trái với lời tuyên thệ khi ông bước chân vào tổ chức CIA. Tòa án đã phán quyết Frank Snepp không bị tội tiết lộ bí mật nghiệp vụ nhưng cũng quyết định cho thu hồi quyển sách “Decent Interval” của Frank Snepp. Tuy nhiên phán quyết này chỉ có hiệu lực hình thức bởi vì cả thế giới đều đã đọc Decent Interval..
Theo Frank Snepp thì mọi chuyện đều bắt đầu từ khi ký kết Hiệp Định Paris. Rồi 3 tháng sau khi ký kết Hiệp Định, Tổng Thống Nixon cử Martin làm đại sứ Mỹ tại VN thay Bunker. Frank Snepp mô tả vai trò của Đại sứ Martin: “Mỹ buộc phải bỏ khỏi Việt Nam trong tư thế đường hoàng, và muốn tạo được ấn tượng như vậy thì cần phải có một chuyên gia về ảo thuật và kịch nghệ mà Martin thuộc vào hạng sư phụ. (Trang 75, nguyên văn: “The United States was obliged to crawl out of Vietnam standing up, and to foster that illusion required the kind of conjuring and stagecraft at which Martin so adept”). Như vậy màn kịch bỏ rơi Việt Nam đã được lên giàn từ tháng 4 năm 1973.
Ⅲ – Nixon THẤT HỨA VỚI Liên Xô, THÁNG 8 NĂM 1974.
Năm 1974 giữa năm, Tổng Thống Mỹ Nixon đệ trình Quốc Hội Mỹ bản dự thảo hiệp ước giao thương giữa Mỹ và Liên Xô. Đến lúc này Quốc Hội Mỹ mới biết rằng đây là cái giá mà Nixon đã trả cho việc Liên Xô ngưng cung cấp vũ khí cho Hà Nội và ép Hà Nội phải ký hiệp ước ngưng bắn 1973. Dĩ nhiên khi đưa ra trước Quốc hội, Nixon tin rằng sẽ được thông qua dễ dàng vì lợi ích chung của cả hai nước, nhất là từng bước giải quyết chiến tranh lạnh là điều mà dân chúng Hoa Kỳ mong chờ.
Tuy nhiên ông đã tính lầm, Quốc Hội Mỹ đoán rằng còn nhiều cái giá khác nữa giữa Nixon và Liên Xô, Trung Quốc, Hà Nội vào năm 1972. Vì vậy Quốc Hội bác bỏ thẳng thừng hiệp ước thương mại Xô – Mỹ để buộc Nixon phải lòi ra những thỏa thuận khác. Dĩ nhiên là Nixon không đưa ra, ông dùng đặc quyền hành pháp để từ chối.
Vì vậy Quốc Hội có một cách khác để moi ra những gì mà Nixon đã cam kết với LX, TQ và Hà Nội vào năm 1972; đó là cách lợi dụng vụ Watergate để triệu tập một Ủy ban điều tra đặc biệt về sai phạm của Nixon trong vụ nghe lén, nhờ đó công tố viên của ủy ban điều tra có quyền bắt Nixon phải đưa ra tất cả những cam kết ngầm với Bắc Kinh, Mạc Tư Khoa và cả Hà Nội.
Nixon chỉ còn có cách từ chức để né tránh Ủy ban điều tra bởi vì ông và Kissinger đã có những thỏa thuận mật với đối phương mà không xin phép Quốc Hội. Một khi ông từ chức thì những cam kết của ông trở thành vô hiệu lực. Quốc Hội sẽ không còn cớ để truy xét.
Sau khi Nixon từ chức thì Quốc Hội Hoa Kỳ cho thông qua đạo luật cấm HK buôn bán với các nước Cộng Sản vào cuối năm 1974 (Đạo luật Jackson-Vanik). Sự trở mặt của Quốc Hội Mỹ đã khiến Liên Xô tức giận bởi vì những cam kết của Nixon khi ông ta viếng thăm Liên xô vào năm 1972 đã không được thi hành. Vì vậy, cuối năm 1974, Đại Tướng Kulikov của Liên Xô đến Hà Nội để xúi Hà Nội đưa quân đánh chiếm Miền Nam, Liên Xô sẽ cung cấp vũ khí và chiến phí.
Ⅳ – HÀ NỘI CAY ĐẮNG.
Theo như 7 mục, 23 điều khoản của Hiệp Định Paris thì Hà Nội ngưng bắn vô điều kiện, trao trả cho Mỹ 591 tù binh Mỹ vô kiện, trao trả tù binh VNCH để đổi lại VNCH trao trả 28 ngàn tù binh Bắc Việt. Trong khi đó Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu không phải từ chức, 38 ngàn tù chính trị của mặt trận GPMN vẫn tiếp tục bị giam giữ.
Đặc biệt là “ngưng chiến da beo”, nghĩa là quân đội CSVN vẫn ở trên rừng và quân đội VNCH kiểm soát thành thị và thôn quê Nam Việt Nam. Biên giới hai miền Nam Bắc vẫn được tôn trọng theo như Hiệp Định Geneve 1954.
Nhìn bề mặt của Hiệp Định Paris quá vô lý cho nên giới quan sát quốc tế thừa biết bên trong phải có một mật ước riêng. Quả nhiên sau này vào năm 1977 Tổng Thống Jimmy Cater của Mỹ xác nhận có một mật ước riêng đằng sau Hiệp Định Paris được Nixon ký với Hà Nội 4 ngày sau khi ký kết Hiệp Định Paris 1973. Vào tháng 10 năm 1988 Hà Nội cho công bố toàn văn bản mật ước Nixon & Phạm Văn Đồng.
Theo đó thì Nixon hứa sẽ viện trợ tái thiết cho Bắc Việt 3,25 tỉ USD và viện trợ phát triển kinh tế cho Hà Nội 1,5 tỉ USD. Trong vòng 30 ngày sau khi người tù binh HK cuối cùng rời khỏi VN thì hai bên sẽ thiết lập xong hệ thống viện trợ tái thiết, và trong vòng 60 ngày sau đó thì lập xong hệ thống viện trợ phát triển kinh tế.
Bản mật ước do đích thân Kissinger mang tới Hà Nội cho Phạm Văn Đồng ký nhận. Từ đó Lê Duẩn ngày đêm trông chờ món tiền của Kissinger và đến cuối năm 1974, Liên Xô cử tướng Kulikov sang Hà Nội xúi Lê Duẩn đánh chiếm Miền Nam thì có nghĩa là Hiệp Định Paris coi như tờ giấy lộn. Rốt cuộc Hà Nội biếu không 591 tù binh Hoa Kỳ mà chẳng nhận được đồng nào, suốt 10 năm chiến đấu gian khổ, hằng triệu người chết, hằng chục tỉ đô la nợ chiến phí… đến nay chỉ còn là con số không (sic).
Tướng Kulikov xúi Hà Nội phát động chiến tranh trở lại nhưng Lê Duẩn và tập đoàn lãnh đạo CSVN thực sự trắng mắt. Dân chúng Miền Bắc đã kiệt sức, trong 5 năm nhà nước đã đóng cửa tất cả 18 trường đại học và cao đẳng, bòn vét nhân lực đến độ phải gọi lính ở tuổi 16, tại Miền Bắc chỉ còn một trời đàn bà góa… thì lấy đâu để gây chiến tranh trở lại.
*(Theo hồi ký của tướng CSVN Hoàng Văn Thái thì cho tới năm 1974 Hà Nội đã động viên đến 16% dân số, không thể nào động viên thêm được nữa. Trong khi Miền Nam là 5,88%)
Ⅴ – HẾT ĐẠN VÀ HẾT NHIÊN LIỆU.
Bắt đầu từ năm 1975 Đại Tướng Cao Văn Viên viết tường trình cho Ngũ Giác Đài về những ngày cuối cùng của chiến tranh Việt Nam nhưng đến năm 1983 mới được in thành sách với tựa đề “The Final Collapse” và hai mươi năm sau, 2003 The Final Collapse được nhà nghiên cứu sử Nguyễn Kỳ Phong dịch ra tiếng Việt với tựa đề “Những ngày cuối của Việt Nam Cộng Hòa”. Trong sách có kèm theo những chú giải mới nhất của Đại Tướng Cao Văn Viên. “Một sự thực không thể chối cãi là quân đội VNCH sẽ hết đạn và nhiên liệu vào tháng 6 năm 1975…” (Tài liệu của Ngũ Giác Đài: Cao Văn Viên, The Final Collapse, bản dịch của Nguyễn Kỳ Phong trang 136).
Năm 1974 tháng Giêng, theo tài liệu của CIA: “Từ cuối tháng 12-1973 đến đầu tháng Giêng 1974 Tướng John Murray và ban tham mưu của ông đã làm việc ngày đêm để cố gắng tìm đáp số cho bài toán viện trợ quân sự. Nhưng mỗi lần họ tìm ra một giải pháp để giải quyết vấn đề thì lại phát sinh một vấn đề khác mà kết quả cũng chỉ đưa tới bí lối” (Frank Snepp, Decent Interval, trang 95).
Tướng John Murray là Tư Lệnh cuối cùng của quân đội Hoa Kỳ tại Nam Việt Nam.. Ông đến Việt Nam sau Hiệp Định Paris 1973, sang đầu năm 1974 ông và Bộ Tham Mưu Hoa Kỳ tại Việt Nam phải tính toán sổ sách về viện trợ quân sự cho Nam Việt Nam trong nửa cuối 1974 và đầu năm 1975. Tuy nhiên Ngũ Giác Đài đã cho ông biết trước là có thể dưới 700 triệu đô la nhưng theo các chuyên viên tham mưu của John Murray thì 700 triệu chỉ đủ giữ được Vùng 4.
Năm 1974 cũng theo Frank Snepp, ngày 16-8 John Murray họp buổi họp chót với Đại Tướng Cao Văn Viên (Tổng Tham Mưu Trưởng), Tướng Đồng Văn Khuyên (Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận) và một số tướng lãnh của Bộ TTM. John Murray khuyên Tướng Viên nên liệu cơm gắp mắm, gấp rút lên kế hoạch sẵn sàng bỏ Vùng 1, Vùng 2 và cả Vùng 3 để về cố thủ Vùng 4. Tuy nhiên “Tướng Viên lẫn Tướng Khuyên đều nói rằng lên kế hoạch về quân sự thì được, nhưng về mặt chính trị thì không thể nào thi hành nổi”. Sau buổi họp này thì John Murray giải ngũ, trở về Hoa Kỳ.
Năm 1974 tháng 5, theo Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng (Bộ Trưởng Bộ Kế Hoạch của VNCH) thì ông đã tình cờ trông thấy bản kế hoạch “Cắt Đất Theo Lượng Viện Trợ” của Murray nằm trên bàn của Tổng Thống Thiệu vào tháng 5 năm 1974, nghĩa là 2 tháng trước khi Nixon từ chức. Như vậy Murray chính là tác giả của kế hoạch bỏ Vùng 1, Vùng 2 vào năm 1975, một kế hoạch mà cho tới 40 năm sau người ta vẫn cho là sáng kiến (tối kiến) của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Sự thực Tổng Thống đã bị báo chí Mỹ cố tình gieo tiếng oan mà lúc đó Ông không thể lên tiếng thanh minh.
Năm 1974, ngày 24-12: Theo hồi ký của Đại Tá Phạm Bá Hoa “Ngày 24-12-1974, lúc quân CSVN đang tấn công Phước Long sang ngày thứ 10; một buổi tiệc mừng Giáng Sinh được Tướng Đồng Văn Khuyên, Tham Mưu Trưởng Bộ Tổng Tham Mưu, tổ chức trên lầu của Câu lạc Bộ trong BTTM”. Khách tham dự gồm có Tướng Smith (Chỉ Huy Trưởng cơ quan quân sự HK tại VN; Tướng Quân Y Phạm Hà Thanh; Tướng Công Binh Nguyễn Văn Chức; Đại Tá Phạm Kỳ Loan (Tổng Cục Phó Tiếp Vận); Đại Tá Phạm Bá Hoa (Tham Mưu Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận); Đại Tá Pelosky (Phụ Tá của Tướng Smith); Trung Tá Nguyễn Đình Bá (Chánh Văn Phòng của Tướng Khuyên).
Tướng Smith tiết lộ rằng: “Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ có kế hoạch với ngân khoản dự trù hơn 300 triệu đollar để di tản sang Hoa Kỳ khoảng 40 ngàn sĩ quan và gia đình, nhưng thời gian thì chưa rõ” (Phạm Bá Hoa, Đôi Dòng Ghi Nhớ, Bản in lần 4, trang 264). Khi sách của Phạm Bá Hoa phát hành thì tất cả các nhân vật trong bữa tiệc đều còn sống mạnh khỏe nhưng không ai phản đối, kể cả Tướng Smith; chứng tỏ chuyện này hoàn toàn có thật.
Như vậy là kịch bản bỏ rơi Miền Nam đã được lên giàn trước khi mất Phước Long chứ không phải là sau khi mất Ban Mê Thuột. Người ta đã tính toán sẵn kế hoạch để cho VNCH sụp đổ trước tháng 6 năm 1975, kể cả ước tính trước ngân sách chi dụng cho kế hoạch.
Năm 1975, ngày 7-1: Phản ứng của Mỹ sau khi mất Phước Long là: “Nhà Trắng nói rằng: Tổng Thống Ford không có ý vi phạm những điều cấm chỉ (của Quốc Hội) về việc sử dụng lực lượng quân sự Hoa Kỳ tại Việt Nam” (Hồi ký của Tướng CSVN Hoàng Văn Thái, trang 161). Khi vừa nghe tin này Phạm Văn Đồng tuyên bố: “Cho kẹo quân Mỹ cũng không dám trở lại VN”(trang 146).
Ngay sau khi nhận được tin, Lê Duẩn chỉ thị cho Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng Hoàng Văn Thái lên kế hoạch tiến chiếm miền Nam: “Một tháng sau chiến thắng Phước Long, ngày 5 tháng 2, anh Văn Tiến Dũng lên đường vào Tây Nguyên” (Hoàng Văn Thái, trang 172).
Ngày đó cơ quan USIS của CIA tung tin quân VNCH thua tại Phước Long là do Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cố tình bỏ Phước Long để thử xem phản ứng của Mỹ. Sở dĩ CIA đổ cho Nguyễn Văn Thiệu là để Quốc Hội Mỹ có cớ biểu quyết ngưng viện trợ quân sự cho VNCH.
Ⅵ – Và TÌNH HÌNH THỰC SỰ VÀO THÁNG 3 NĂM 1975:
-Tuần đầu của tháng 3 năm 1975. Trong một cuộc họp đầu tuần của Bộ Ngoại Giao HK, Kissinger đã giải thích hành động viện trợ “Lấy Có” cho Cam Bốt: “Chính Phủ Lon Nol đang trên đà sụp đổ, đây là nguyên do chính khiến chúng ta phải tiếp tục viện trợ để cho sau này không ai có thể trách chúng ta vô trách nhiệm”. (Frank Snepp, Decent Interval, trang 175). *(Nguyên văn: “…he say, the Lon Nol Government was on the brink of collapse, it was essential to keep open the aid pipeline so no one could later blame the United States for the disaster”).
– Ngày 7-3-1975, Kissinger chỉ thị cho các viên chức Ngoại Giao HK trước khi ông ta lên đường đi Trung Đông: “Hãy làm mọi cách để Quốc Hội tiếp tục duy trì viện trợ (Lấy Có) cho Cam Bốt và Việt Nam. Không phải để cứu vãn hai nước đó, mà vì không thể nào cứu vãn được hai nước đó” (Frank Snepp, Decent Interval trang 176). *(Nguyên Văn: Do every thing possible to ensure that Congress lived up our aid commitments to Cambodia and Vietnam- not because the two countries were necessarily salvageable, but precisely because they might not be).
Hai ngày sau khi Kissinger nói câu này thì Văn Tiến Dũng ra lệnh tấn công Ban Mê Thuột.
Kissinger không muốn thiên hạ nghĩ rằng Việt Nam sụp đổ do không còn viện trợ. Và với mức độ viện trợ nhỏ giọt thì đến ngày 30-6-1975 quân đội VNCH sẽ không còn Gạo và không còn Đạn (Tài Liệu The Final Collapse của Đại Tướng Cao Văn Viên). Vì thế Kissinger mong cho Quân đội VNCH tự tan rã trước khi hết Gạo và Đạn trước tháng Sáu năm 1975. Lúc đó thiên hạ sẽ nghĩ rằng Quân Đội Sài Gòn đã thua chạy trước sức tiến công vũ bão của quân Hà Nội.
Ⅶ – THẾ BẮT BUỘC của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu.
Năm 1975 ngày 11-3, một ngày sau khi mất Ban Mê Thuột. Theo Đại Tướng Cao Văn Viên “Ngày 11-3 Tổng Thống Thiệu mời các Tướng Khiêm, Viên, Quang ăn sáng tại Dinh Độc Lập và sau đó trình bày ý định muốn cắt bỏ bớt lãnh thổ cho vừa với mức viện trợ quân sự của HK vào năm 1975”. Tướng Viên ghi lại cảm nghĩ của ông lúc đó: “Quyết định của Tổng Thống Thiệu cho chúng tôi thấy đây là một quyết định ông đã suy xét thận trọng. Hình như Tổng Thống Thiệu đã ngần ngại về quyết định đó, và bây giờ ông chỉ thổ lộ cho ba người chúng tôi trong bữa ăn sáng…”
*“… Tổng Thống Thiệu phác họa sơ: …Một vài phần đất quan trọng đang bị Cộng Sản chiếm, chúng ta sẽ cố gắng lấy lại bằng mọi gía…Ban Mê Thuột quan trọng hơn hai tỉnh Kontum và Pleiku nhập lại…” (Cao Văn Viên, The Final Collapse, bản dịch của Nguyễn Kỳ Phong, trang 129-131).
“Ngay sau khi Phước Long bị tấn công, Hoa Kỳ không có một phản ứng nào … . Một thực tế gần như hiển nhiên là Hoa Kỳ không muốn cuộc chiến tiếp tục và biểu quyết viện trợ để VNCH đánh tiếp là chuyện sẽ không xảy ra. Đối với Hoa Kỳ cuộc chiến Việt Nam đã kết thúc” (trang 132).
đoạn trích dẫn trên đây đã giải thích vì sao Tổng Thống Thiệu phải bỏ Vùng 1 cũng như Vùng 2. Và vì sao Tướng Viên không nhiệt tình tham gia kế hoạch của Tướng Thiệu.
 
Cuối cùng, sau 30-4-1975 Mỹ mở chiến dịch đổ tội làm mất nước cho Tổng Thống Thiệu để cho người ta không oán hận Mỹ đã bỏ rơi VNCH. Giờ đây đã 40 năm trôi qua, nếu người Mỹ không lên tiếng giải oan cho Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, thì cũng nên trả lại sự thật cho lịch sử..
 
Tác gỉả Bùi Anh Trinh