“Những cái nhất” của ngày 17/2/1979
Đinh Hoàng Thắng
Đọc cái “tút” của GS-TS Trần Ngọc Vương từ Đại học Quốc gia nhân ngày tập đoàn lãnh đạo Bắc Kinh phát động cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam 41 năm trước đây, thú thật người viết bài này không khỏi giật mình. Nói chuyện điện thoại với Giáo sư xong, viết bài này, như thắp một nén tâm hương, tưởng niệm gần 100.000 chiến sỹ và đồng bào ta đã bỏ mình trong hai cuộc chiến tranh biên giới bảo vệ Tổ quốc vốn bị lãng quên một cách nhẫn tâm và chóng vánh nhất.
Con số 100.000 chiến sỹ và đồng bào ta hy sinh là lấy từ Tuyên bố của Câu Lạc Bộ Lê Hiếu Đằng. Tuyên bố viết: “Lịch sử rồi sẽ phải công khai sự thật số lượng người Việt Nam thương vong trong cuộc chiến chống Trung Quốc xâm lược ở cuối thế kỷ 20, nhưng theo các nhà quan sát phương Tây ước tính, thì quân và dân Việt Nam đã hy sinh trong hai cuộc chiến tranh biên giới mà nguyên nhân là từ Trung Quốc cộng sản gây ra khoảng 100.000 người”.
Vâng, con số nói trên rõ ràng chưa được thẩm định. Ở một đất nước mà phải sau 3 Nghị quyết của Bộ Chính trị, doanh nghiệp, người dân và xã hội mới được phép “hội nhập toàn diện” với thế giới, thì việc trích con số mất mát trong trận mạc chưa qua thẩm định rất có thể bị xử lý. Vẫn biết chẳng hy vọng gì nhiều vào câu chữ trong EVFTA, tự do báo chí sẽ được bảo đảm ở Việt Nam, để tính chuyện “chạy tội”. Đơn giản, phải chờ đến năm 2023, cam kết trong Hiệp định ấy mới có hiệu lực pháp lý. Còn trên thực tế thì chưa biết đến “Tết Công gô” nào mới có!
Nhưng chẳng nhẽ vì thế mà những nhà báo trung thực dịp này vẫn “mũ ni che tai”? Tác giả bài này còn nhớ, dạo nọ, nhân tưởng niệm ngày 17/2, một trang mạng hàng đầu ở Việt Nam có đặt bài về cuộc chiến tranh biên giới, nhưng lại đưa ra yêu cầu là không được đề cập đến hai từ “Trung Quốc” trong bài viết. Thật là tột cùng của mọi sự phi lý! Đỉnh cao của mọi sự vô liêm sỉ! Ngay như 17/2 năm nay, các báo hầu như “không giám chấp” hay là do “huý kỵ” đặc biệt, vẫn tránh hai chữ “Trung Quốc” trong bài viết như tránh dịch Covid-19. Lần này, cùng với GS. Trần Ngọc Vương, tác giả muốn đề xuất với các “sử gia” đáng kính 5 “cái nhất” mà những người viết bộ sử “chính thống” ấy không rõ vì lý do gì đã bị ép quên hay tự lãng quên.
Thứ nhất, đợt tấn công phủ đầu trên toàn tuyến biên giới bắt đầu ngày 17/2/1979 thực chất là một cuộc chiến tranh xâm lược có quy mô lớn nhất nhưng lại diễn ra trong một thời gian ngắn nhất, tính đến thời điểm kẻ địch phải tuyên bố rút quân (ngày 5/3/1979). Theo nhà nghiên cứu Lịch sử Lê Mã Lương, đấy thực sự là cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại nhất trong lịch sử dân tộc. Chưa bao giờ chúng ta phải đối phó với một đội quân xâm lược nhung nhúc như thế! Địch tung ra một lực lượng quân sự 600.000 lính, cùng các phương tiện chiến tranh hiện đại, tàn phá 6 tỉnh biên giới phía Bắc trong gần một tháng. Tuy nhiên, chúng chỉ tiến sâu vào được đất ta không quá 50km. Khác với các triều đại trước đây, mỗi lần đánh ta, đa phần quân Tàu vào tận kinh đô. Ấy vậy mà, các sử gia chính thống chỉ chép về chiến công hiển hách ấy có 290 dòng trên tổng số 103.000 dòng về các sự kiện qua 70 năm của bộ sử chính. Số chữ về cuộc chiến chiếm chưa đầy 0,003% toàn bộ số chữ về các sự kiện từ 1930 đến 2000. Mỉa mai thay, các “sử nô” đã viết về cuộc chiến tranh bi thảm ấy bằng những con chữ vô hồn nhất, với nguỵ biện để bảo đảm trung tính và khách quan, vì chưa “thương lượng” xong với các “sử gia bạn”.
Thứ hai, từ đòn đánh bất ngờ ấy, một cuộc chiến tranh đẫm máu nhất đã diễn ra, như tài liệu từng tổng kết. Nhưng sử “chính thống” chép quá sơ lược, thậm chí hầu như không viết gì về cuộc chiến từ 1984 đến 1989, nên rất nhiều người Việt Nam, nhất là thế hệ trẻ, vẫn không biết gì về mức độ ác liệt của nó. Trên thực tế, chỉ riêng tại Vị Xuyên, Hà Tuyên giai đoạn 1984-1989, Trung Quốc chết 15.178 quân, bị thương 17.757 tên. Ở khu vực này, có chỗ ta và địch giằng co nhau từng mét đất biên cương. Việt Nam đã tổn thất 4.000 (có nguồn ghi 5.000) sĩ quan, chiến sĩ và hơn 9.000 bị thương. Chỉ riêng một đêm 12/7/1984 mở màn chiến dịch tái chiếm các điểm cao, quân khu II thiệt hại hơn 600 cán ,bộ chiến sĩ. Có nguồn ghi ngày đó, trên các điểm cao ấy, các sư của ta “mất” ít nhất 1200 người.
Thứ ba, cuộc chiến đẫm máu nói trên lại cũng là một cuộc chiến dai dẳng nhất (kéo dài chục năm có lẻ) trong lịch sử cận đại Việt Nam. Như tuyên bố của CLB Lê Hiếu Đằng, nếu định nghĩa chiến tranh xâm lược là một quốc gia đưa quân đi giết người của đối phương để chiếm lãnh thổ, thì cuộc chiến Trung Quốc xâm lược Việt Nam vẫn chưa kết thúc. Trung Quốc từng xâm lăng, bắn giết người Việt Nam để chiếm Hoàng Sa của Việt Nam ngày 19/1/1974, tiếp đó dùng tập đoàn Polpot xâm lược Tây Nam – Việt Nam, đặc biệt cuộc tấn công 6 tỉnh biên giới phía Bắc từ 17/2/1979 đến 1989, vụ thảm sát binh sĩ, sĩ quan Việt Nam để chiếm Gạc Ma và một số đảo đá thuộc Trường Sa ngày 14/3/1988, cho đến nay, Trung Quốc vẫn đang chiếm giữ và xây các căn cứ quân sự trên đó.
Thứ tư, trong thời gian chiến tranh Trung – Việt 10 năm có lẻ ấy, Trung Quốc đã vi phạm luật tù binh thô bạo nhất và đối xử dã man nhất với thường dân. Quân Trung Quốc đã thảm sát hàng ngàn tù binh, đặc biệt là 64 cán bộ chiến sĩ công binh Việt Nam ra xây đảo Gạc Ma ngày 14/3/1988, cùng với 2 tàu vận tải vĩnh viễn nằm sâu dưới lòng Biển Đông. Trung Quốc đã chiếm đảo Gạc Ma và nhiều đảo đá khác thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam cho đến ngày nay. Trên biên giới, lính Trung Quốc đã thảm sát dã man hàng ngàn thường dân, đặc biệt ở Tổng Chúp, đã giết 43 phụ nữ, trẻ em rồi quăng xuống giếng ở Tổng Chúp, xã Hưng Đạo, thành phố Cao Bằng, tháng 2/1979.
Thứ năm, một cái nhất nữa không thể không nhắc đến: Chưa có một cuộc chiến tranh nào trong lịch sử Việt Nam được cả chính quyền lẫn các sử quan “lãng quên nhanh nhất” và “bỏ chạy một cách kỹ lưỡng nhất” (từ của GS. Trần Ngọc Vương). Bộ lịch sử 15 tập, dày hơn 10.000 trang, với khoảng 290.000 dòng, trong đó dành cả chục ngàn dòng về cuộc chiến ý thức hệ từ 1954 đến 1975 – cuộc chiến mà Trung Quốc đã “tận tình giúp” để ta “đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng” – trong khi đó chỉ chép vẻn vẹn có mười một dòng về cuộc chiến chống Trung Quốc xâm lược. Sau hơn 4 thập kỷ, người ta cố tình tung hoả mù lên tính chính danh của cuộc chiến. Không giám gọi kẻ xâm lược là địch, các chiến sỹ ta hy sinh thì khó khăn lắm mới được vinh danh là liệt sỹ. Chứ không phải chết ngày hôm trước thì ngay hôm sau đã được truy tặng “Huân chương Chiến công hạng nhất”. Quả là một kỷ lục về sự “nhập nhằng ý thức hệ!”
Từ những thiện nghĩ trên đây, có thể thấy cuộc chiến bảo vệ tự do độc lập, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam cho đến hôm nay vẫn chưa kết thúc. Kẻ thù của ta không ai khác chính là kẻ chiếm Hoàng Sa của Việt Nam 19/1/1974, kẻ chủ mưu gây ra cuộc chiến đẫm máu hơn 43 năm trước ở biên giới Tây Nam và 41 năm trước (từ 17/2/1979 – 1989) ở 6 tỉnh biên giới phía Bắc. Ngày nay, kẻ thù ấy vẫn ngang nhiên bám vào đường “lưỡi bò” để đòi chiếm 80% Biển Đông, cho dù Toà Trọng tài của Liên hiệp quốc đã hoàn toàn bác bỏ.
Đúng như cảnh báo của CLB Lê Hiếu Đằng, với chiến lược “vành đai con đường” Trung Quốc đã/đang bành trướng lãnh thổ, xâm phạm biển đảo và thềm lục địa Việt Nam, không để Việt Nam hợp tác với các nước khác khai thác dầu khí ở khu mỏ Cá Rồng Đỏ, Bãi Tư Chính. Kẻ thù đó ngày nay với “sức mạnh mềm” kinh tế, văn hóa, chính trị… đã/đang lôi kéo được nhiều người mang dòng máu Việt Nam nhưng vì cơ hội chính trị, tham lam quyền lực và vật chất, có nhiều người mang danh trí thức cũng bị mờ mắt, bị lú lẫn, đã vô tình hay hữu ý làm tay sai cho kẻ xâm lược đất nước mình./.
Có thể tham khảo thêm:
Tác giả gửi cho viet-studies ngày 17-2-20
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét