Nhạc sĩ Tuấn Khanh: Những điểm sa lầy tương đồng, giữa Phật giáo quốc doanh Trung Quốc và Việt Nam
Tương tự như Trung Quốc, mối quan hệ giữa nhà cầm quyền và Phật giáo tại Việt Nam hết sức phức tạp. Đó là mối quan hệ lợi dụng qua lại lẫn nhau, mà các nhà phân tích xã hội gọi đó là bài tính có kết quả tổng bằng không cho cả hai bên. Bởi những người trung thành với lý thuyết Cộng sản dần dà tự tìm đến Phật giáo để tự chữa lành phần tinh thần trống rỗng của mình, một mô hình tín ngưỡng duy nhất được cho phép tồn tại đại chúng trong nền chính trị vô thần. Và ngược lại, những người mộ đạo thuần khiết thì dần dần tự rời bỏ không gian Phật giáo quốc doanh, vì nhận ra rằng đó chỉ là một trò mua bán tinh thần được dựng nên bằng tiền và chính trị.
Phật giáo ở Trung Quốc được hoạt động bình thường từ thập niên 1980, sau cái chết của Mao Trạch Đông, kẻ đã nhấn Phật giáo ở Trung Quốc xuống tận bùn đen, đẩy các giá trị ngàn đời của Chùa và kính sách vào ô nhục ở cuộc cách mạng văn hóa kéo dài từ 1966 đến 1976. Khởi đầu thì đó chỉ là chính sách sửa sai, nhưng pha trộn âm mưu mô hình Phật giáo do Ban tôn giáo của Trung ương Đảng chỉ đạo, thường được người đời gọi mai mỉa là Phật giáo quốc doanh. Nhưng rồi giới chóp bu ở Bắc Kinh nhanh chóng nhận ra, Phật giáo quốc doanh lại là một nguồn thu khổng lồ, có thể nuôi sống các bộ máy chính quyền hay quan chức địa phương, và lại dễ dàng đối ngoại như một kiểu “tự do tôn giáo”.
Ngay lập tức Chùa chiền, kinh sách, tượng Phật lớn kỷ lục… được dựng nên bằng tiền của các doanh nghiệp đầu tư, thậm chí tiền bẩn của các quan chức tham nhũng… nhằm thu hút dân chúng. Trong thời đại của Mao, chùa các nhà sư bị đẩy đi làm ruộng, chăn nuôi… để gọi là có ích cho sự phát triển đất nước. Nhưng đến thời đại của Đặng, các nhà sư được ăn mặc đẹp, tổ chức lễ hội… tạo ra nguồn thu lớn, mà nhà nghiên cứu người Trung Hoa Zhe Ji viết trong tiểu luận “Phật giáo và Nhà nước: Mối quan hệ mới” (2008), tạm gọi tên là “Nền kinh tế nhà Chùa” (monastic economy).
Ở Việt Nam, sau năm 1975, tôn giáo bị coi là “thuốc phiện của nhân dân”. Chùa bị chiếm, cơ sở Phật giáo và kinh sách vở bị tịch thu, nhiều tăng ni và tín hữu Phật giáo của Giáo Hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất bị bắt, kết án, giam lỏng, tù và đi cải tạo đến chết. Để tạo ra Giáo Hội của Nhà nước, một Hội nghị thống nhất Phật giáo Việt Nam đã được tổ chức tại Quán Sứ, Hà Nội, được triệu tập bởi Ban Vận động Thống nhất Phật giáo Việt Nam vào ngày 7 tháng 11 năm 1981, sau đó thành lập nên Giáo hội này, từ đó về sau được định nghĩa là giáo hội quốc doanh bởi tôn chỉ rất rõ “Đạo pháp, Dân tộc, Chủ nghĩa xã hội”. Dĩ nhiên, mục đích cũng nhằm thủ tiêu hệ thống Giáo Hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất.
Phật giáo Việt Nam bị dòm ngó như một loại con rơi, tạm tồn tại trong xã hội cộng sản. Nhưng đến năm 2003, Bộ chính trị Cộng sản VN nhận ra việc cho phép tín ngưỡng tồn tại có lợi cho mình hơn là tiêu diệt đi. Đặc biệt là sau thời gian 1995, khi Việt Nam được bỏ cấm vận và đối diện với Liên Hợp Quốc về nhiều vấn đề Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị, bao gồm tự do tín ngưỡng.
Ngày 12 tháng 3, năm 2003, Ban chấp hành Trung ương đảng CSVN ra nghị quyết số 25-NQ/TW, do đảng trưởng đảng CSVN là Nông Đức Mạnh ký, đã xác định một đường lối mới, cho phép tôn giáo được tồn tại trong xã hội, nhưng trong Mục II, phần 4, nhấn mạnh rằng “Công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị.”
Kể từ đó, Phật giáo quốc doanh ở VN được đẩy mạnh hoạt động, không chỉ về mặt vật chất và còn cả về con người được nhà cầm quyền đầu tư đi học lý thuyết Phật giáo, khoác áo làm sư và kiểm soát nhiều tăng viện. Thậm chí luồng nhân lực đó, được đẩy ra hoạt động ở hải ngoại, nơi có các cộng đồng người Việt tự do đang quần cư.
“Giới Phật giáo (quốc doanh) tại Trung Quốc hiện tận hưởng nhiều tự do trong việc xây dựng các chùa chiền, tuyển mộ tăng sĩ, tổ chức các nghi lễ và truyền bá tín ngưỡng theo kiểu của họ” tác giả Raoul Birnbaum trong cuốn Buddhist China at the Century’s Turn (2017) cũng ghi nhận như vậy. Nhưng bên cạnh đó, khi thu được lợi nhuận từ “Nền kinh tế nhà Chùa”, nhà nước cộng sản cũng tự lũng đoạn các giá trị thuyết vô thần của mình khi để cho sự sùng bái tín ngưỡng tăng nhanh, hỗn loạn, thậm chí dẫn đến các cực của mê tín.
Điều gì phải đến, rồi đã Raoul Birnbaum đến. Các vụ bê bối sư thầy và chùa ở Trung Quốc liên tục xuất hiện trong thập niên 90, qua đến tận lúc này. Rất nhiều lời chỉ trích đã xuất hiện trên các trang mạng Trung Quốc về chuyện các sư xài tiền như nước, và bao quanh là các nữ tín hữu trẻ đẹp. Gần đây lại là các vụ bê bối về tình dục đã bùng nổ, liên quan đến các sư danh tiếng ở Bắc Kinh, Hà Nam… và đó lại là những nơi dẫn đầu về “nền kinh tế nhà Chùa”.
Câu chuyện chùa Ba Vàng chỉ là một trong những nơi đang lạm dụng mê tín, phản bội tinh thần Phật giáo chính tông, phụng sự cho thế quyền và mua bán tín ngưỡng. Từ Nam chí Bắc, những lời ta thán như vậy vẫn xuất hiện không ngớt trên các trang mạng xã hội, cùng hình ảnh tố cáo. Nhưng nếu chú ý, hình thức trừng phạt những người đã tạo ra các bê bối đó – ở Việt Nam cũng như ở Trung Quốc – thường là kiểm điểm hoặc khai trừ khỏi các chức vị. Đó cũng là một biểu hiện cho thấy tổ chức tôn giáo giờ đây cũng hành xử như một chi bộ đảng, điều đó hoàn toàn khác biệt với một tổ chức tôn giáo chân chính.
Tuấn Khanh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét