Thứ Hai, 26 tháng 2, 2018

NHỮNG CUỘC DI DÂN LẶNG LẼ

NHỮNG CUỘC DI DÂN LẶNG LẼ
     Trong lịch sử Việt Nam, có rất nhiều cuộc di dân, nhưng có hai cuộc di dân lớn nhất trong lịch sử cận đại. Đó là hai cuộc di dân năm 1954 và năm 1975. Cả hai cuộc di dân này đều có nguyên nhân trực tiếp, đó là tỵ nạn cộng sản. Một cuộc di dân thứ ba, về số lượng không kém hai cuộc di dân trước đây, nhưng diễn ra âm thầm, lặng lẽ và trải dài qua nhiều năm. Theo tờ báo Vietnam Finance online ra ngày 24/7/2016, từ năm 1990 đến năm 2015, đã có 2.558.678 người Việt Nam di cư ra nước ngoài (nguồn: số liệu của Tổ chức Di cư quốc tế IMO lấy từ nguồn dữ liệu của Vụ Liên hợp quốc về vấn đề kinh tế và xã hội). Như vậy, tính trung bình trong 26 năm, mỗi năm có khoảng gần 100.000 người Việt di cư ra nước ngoài. Ngân hàng Thế giới cho biết, Việt Nam nằm trong tốp 10 quốc gia di cư ra nước ngoài nhiều nhất khu vực Đông Á - Thái Bình Dương tính đến năm 2013.
     Những cuộc di dân lặng lẽ này là câu trả lời xác đáng nhất cho bản chất chế độ cộng sản Việt Nam. Tuy nhiên, chúng ta cần nghiên cứu toàn diện về bối cảnh đất nước, những nguyên nhân thúc đẩy người ra đi, các sắc thái di dân và cuối cùng là liệu có một sự trở về của những con dân Việt trong tương lai hay không?

     I/ Bối cảnh đất nước
     Chúng ta lấy năm 1990 là năm xuất phát để tìm hiểu bối cảnh đất nước. Lý do là, công cuộc đổi mới mà đảng cộng sản Việt nam phát động bắt đầu từ cuối năm 1986, nhưng để chuyển đổi toàn diện đời sống kinh tế - xã hội, cũng như các cơ chế, chính sách đổi mới đi vào cuộc sống cũng mất vài ba năm.
     Ở Việt Nam, nếu chúng ta lấy số liệu thống kê các chỉ tiêu kinh tế - xã hội của nhà nước và báo chí để đánh giá, nhìn nhận thì không một ai hiểu nổi, tại sao với một cuộc sống ngày càng đi lên, thu nhập tăng liên tục, các mặt của đời sống xã hội đang phát triển tốt đẹp mà người dân lại bỏ nước ra đi với con số kinh hoàng như vậy. Đầu tiên là chỉ số về tăng trưởng kinh tế. GDP của Việt Nam tăng trưởng qua các năm là niềm mơ ước của nhiều quốc gia trên thế giới. Năm 1990, GDP của Việt Nam tăng trưởng 5%, cho đến hết năm 2017, tức là 27 năm, tốc độ tăng trưởng GDP đều trên 5%,trừ duy nhất năm 1999, tăng trưởng 4,8%. Một nền kinh tế từ chỗ quy mô hạn chế, được đầu tư do mở cửa và đổi mới, tốc độ cao hàng năm cũng là điều bình thường. Nhưng khi đã đổi mới được 20-25 năm rồi, tốc độ tăng trưởng vẫn ở mức 6-7% thì quả là điều kỳ diệu (tăng trưởng GDP năm 2016 là 6,21%, năm 2017 là 6,81%).
     Từ tốc độ tăng trưởng GDP, chúng ta có mức tăng thu nhập bình quân đầu người tính theo GDP cũng thuộc diện ước mơ trên thế giới. Nếu như thu nhập bình quân đầu người tính theo GDP năm 1992 mới là 140 USD, thì năm 2012 đã là gần 1.600 USD, và năm 2017 là 2.385 USD. Ngoài ra, các chỉ số về phát triển con người, xã hội và môi trường đều chứng tỏ Việt Nam là nơi đáng sống, không chỉ với người Việt, mà còn cả của người dân các nước khác nữa. Vậy nhưng, người Việt vẫn cứ ra đi, thật là một nghịch lý!
     Sự phát triển của các quốc gia cộng sản sau sự kiện sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu, mà đại diện là Việt Nam và Trung cộng, là một điều khó hiểu đối với nhiều nhà quan sát. Có một số người, ngay từ đầu của những công cuộc cải tổ, đổi mới đã nhìn nhận ra vấn đề, nhưng họ quá lẻ loi và chưa có những số liệu để hỗ trợ nhận định của mình. Tuy nhiên, trong hai năm trở lại đây (2016, 2017), tất cả đã rõ ràng. Không chỉ là số liệu mà toàn bộ thực trạng của nền kinh tế, của đất nước đã chứng minh nhận định của họ.
     Công cuộc đổi mới của đảng cộng sản Việt Nam thực chất là một thủ đoạn để duy trì chế độ, duy trì độc quyền lãnh đạo của đảng cộng sản trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Sự tăng trưởng, các con số tăng trưởng chỉ là kết quả của hai yếu tố. Yếu tố thứ nhất, sự cởi trói của nền kinh tế từ kế hoạch - bao cấp sang thị trường tự do. Ở đây chúng ta cần hiểu đúng, cởi trói nhưng cởi đến mức nào? Cởi hoàn toàn hay chỉ là trong phạm vi nào đó? Đến thời điểm này, chúng ta có thể hình dung nền kinh tế Việt Nam được cởi trói như sau. Trước đây, nền kinh tế như một con người bị bó chặt dây thừng quanh người từ chân lên tới đầu, chỉ hở mũi để thở. Công cuộc đổi mới đã cởi cuộn dây thừng bó quanh người, chỉ còn trói từng tay, từng chân vào bốn sợi dây thừng mà đảng nắm giữ. Như vậy, con người từ chỗ bất động, đã đứng lên, đi lại, tay chân vung vẩy được cũng đã tạo ra một xung lực mới cho sự phát triển. Nhưng khi đi lại, vung vẩy hết tầm sợi dây thì phải dừng lại. Hoặc khi vung tay quá đà, chân bước quá xa đều bị sợi dây kéo lại. Sự đình trệ của nền kinh tế trong những năm gần đây đã chứng minh cho nhận định này.
     Yếu tố thứ hai, kết quả của những tăng trưởng ngoạn mục hóa ra là kết quả của những đầu tư bằng việc đi vay và đảo nợ. Những tiết lộ về số nợ công của nhà cầm quyền Việt Nam trong hai năm qua đã cho thấy rất nhiều vấn đề, mà đầu tiên là giải thích cho sự khó hiểu về tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Đến thời điểm này, không còn một ai tự hào về những con số tăng trưởng kinh tế 5-7% GDP, con số vài nghìn đô la thu nhập đầu người… khi mà tổng số nợ của Việt Nam hiện tại đang gấp 3 lần GDP, tức là khoảng hơn 600 tỷ đô la, và quan trọng hơn, không có một mảy may trả nợ lãi, chưa nói nợ gốc…

Như vậy, bối cảnh của đất nước trong khoảng 25-30 năm trở lại đây chính là việc đảng đảng cộng sản và nhà cầm quyền Việt Nam cởi trói phần nào nền kinh tế, và các lĩnh vực khác, đổi lấy sự hội nhập và các khoản vay, viện trợ để duy trì chế độ độc tài toàn trị, duy trì độc quyền lãnh đạo của đảng cộng sản. Đồng thời, các thế hệ lãnh đạo đảng, nhà nước cũng như quan chức trong bộ máy đã tạo ra một bộ máy tham nhũng khủng khiếp, vơ vét hàng trăm tỷ đô la dẫn tới số nợ khổng lồ cũng như sự phá hủy hoàn toàn môi trường sống, nền tảng đạo đức, văn hóa xã hội của đất nước.

     II/ Nguyên nhân của những cuộc ra đi
     Để tìm hiểu nguyên nhân người dân ra đi, từ bỏ quê hương, đất nước để tới sống ở một nơi xa lạ, một quốc gia khác, chúng ta cần hiểu tâm lý của người dân. Đối với người dân, họ không quan tâm tới chỉ số tăng trưởng kinh tế, không quan tâm tới thu nhập bình quân đầu người. Họ chỉ quan tâm tới công việc, nghề nghiệp, thu nhập, mức sống và cảm nhận thực tế cuộc sống với những lợi ích sát sườn của mình. Mặt khác, chúng ta tìm hiểu môi trường học tập, làm việc, công tác để từ đó tìm ra nguyên nhân của việc người dân không còn thiết tha với cuộc sống tại chính quê hương mình. Tựu trung lại có những lý do sau đây.
     1/ Thu nhập và mức sống của người dân
     Thu nhập và mức sống của người dân là vấn đề quan tâm hàng đầu, là nguyên nhân chính dẫn tới sự ra đi của người dân. Không một người dân nào không cảm nhận sự thay đổi về thu nhập sau công cuộc đổi mới. Tuy nhiên, mức tăng về thu nhập của người dân đã không theo kịp với những chi phí và nhu cầu tiêu dùng của người dân dẫn tới cuộc sống khổ sở, vật lộn mưu sinh mà tuyệt đại đa số người dân phải đối mặt. Công cuộc đổi mới, phúc lợi của tăng trưởng kinh tế đã làm tăng thu nhập của người dân, nhưng đồng thời cũng xã hội hóa những lĩnh vực quan trọng như y tế, giáo dục, vv… Việc xã hội hóa là cần thiết nhưng nó đã không có được cơ chế minh bạch, kiểm tra và giám sát của người dân. Cùng với tệ nạn sách nhiễu, lạm thu và tham nhũng, hối lộ, người dân đã bước vào một chu kỳ tiêu dùng mới với những khoản đóng góp, phí, lệ phí và rất nhiều khoản chi tiêu khác. Niềm vui của việc tăng thu nhập không thể bù đắp được nỗi lo cho những khoản chi phí mới phát sinh. Đối với những người công chức, viên chức làm công ăn lương, với công nhân và nông dân, tuyệt đại đa số đều rơi vào tình cảnh thiếu trước hụt sau và hoàn toàn không có tương lai đối với cuộc sống hiện tại.
     2/ Môi trường kinh doanh
     Khi công cuộc đổi mới được khởi phát, một phần do sự hồ hởi của tình hình, một phần các cơ quan chưa kịp xây dựng các quy định, quy tắc về môi trường kinh doanh, các doanh nghiệp và doanh nhân còn có được môi trường thông thoáng và thuận lợi để kinh doanh. Nhưng càng ngày, các quy định, quy tắc, luật lệ cùng với sự sách nhiễu của các cơ quan quản lý, các ban ngành liên quan, môi trường kinh doanh ngày càng đông cứng và khó khăn cho tất cả các doanh nghiệp. Mặt khác, việc phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân cũng tạo ra vô vàn khó khăn cho các doanh nghiệp trong việc huy động vốn, chiếm lĩnh thị trường. Ngoài ra, viêc thị trường bất động sản được hình thành và hoạt động không minh bạch đã đẩy giá nhà đất, giá nhà xưởng, giá thuê văn phòng lên mức phi lý, khiến cho việc kinh doanh bị méo mó, đẩy giá thành các mặt hàng và dịch vụ lên đã làm cho các doanh nghiệp không thể tồn tại. Chưa kể việc sách nhiễu của các cơ quan chính quyền, đoàn thể địa phương địa bàn nơi doanh nghiệp hoạt đông. Tổng hợp tất cả các khó khăn mà doanh nghiệp phải đối diên, chỉ có những doanh nghiệp nào có mức lợi nhuận gấp 4-5 lần chi phí mới có thể tồn tại được trong môi trường hiện nay. Như vậy, môi trường kinh doanh ở Việt Nam hiện nay đang tiêu diệt các doanh nghiệp, và không có hi vọng nào khi nhà nước không thực tâm cải thiện môi trường kinh doanh.
     3/ Môi trường công tác
    Môi trường công tác cũng là một trong những lý do để người dân không muốn gắn bó với quê hương đất nước mình. Nói về môi trường công tác có ba vấn đề cần quan tâm, đó là vấn đề tuyển dụng, thi thố khả năng (cống hiến) và đãi ngộ. Đối với vấn đề tuyển dụng, xin việc làm hoàn toàn không phụ thuộc khả năng, năng lực mà phụ thuộc vào mối quan hệ, vào đút lót, mua suất biên chế. Ở Việt Nam hiện nay, không có một suất biên chế nào mà không có một giá cả nhất định. Chỉ có một số rất ít con cháu, thân nhân của lãnh đạo trực tiếp xin việc mà không mất tiền. Khi đã vào làm việc, tiêu chuẩn đánh giá cán bộ cũng hoàn toàn không phụ thuộc vào năng lực và kết quả công việc, mà bằng mối quan hệ, bằng sự luồn lọt, nịnh hót nên cũng triệt tiêu động lực cống hiến của những người có tâm huyết. Vấn đề đãi ngộ cũng không khác hai lĩnh vực kia, đó là đồng lương rẻ mạt và sự bất bình đẳng, bất công bằng. Với mức lương rẻ mạt, lại phải bỏ tiền mua suất biên chế, xin việc nên những cán bộ, công chức tìm mọi cách, mọi thủ đoạn để sách nhiễu, lạm thu, tham nhũng nhằm thu hồi số tiền đã bỏ ra cũng như kiếm chác cho bản thân và có tiền mua quan, bán tước. Như vậy, môi trường công tác đã làm tha hóa con người, làm con người biến chất, bán lương tâm lấy vinh hoa phú quý.
     4/ Môi trường sống
     Môi trường sống cũng là mối quan tâm lớn của người dân hiện nay. Có ba lĩnh vực cần quan tâm.
     - Môi trường sống tự nhiên. Môi trường sống tự nhiên bao gồm hai yếu tố quan trọng, nguồn không khí và nguồn nước. Cả hai vấn đề này ở Việt Nam hiện nay đều bị ô nhiễm nặng nề. Môi trường không khí ở các thành phố lớn như Hà Nội, Sài Gòn khói bụi và các chất ô nhiễm đã vượt rất nhiều lần mức độ cho phép. Các chỉ số của không khí bị ô nhiễm đều thuộc tốp đầu thế giới. Môi trường nước cũng đang trong tình trạng tương tự, phần lớn các con sông ở Việt Nam đều ô nhiễm khủng khiếp, một số là những con sông chết. Đặc biệt, môi trường biển bốn tỉnh miền trung vừa bị hủy hoại bởi nhà máy thép Formosa, biển đã chết ở bốn tỉnh miền trung. Trong số những điều mà cộng sản hủy hoại, thì môi trường luôn đứng đầu cả ở Việt Nam và Trung cộng…
     (còn nữa)

Hà Nội, ngày 22/02/2018

Nguyen Vũ Bình
 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét