Thứ Tư, 24 tháng 8, 2016

SỬ VIỆT HIỆN-ĐẠI MỘT CÁCH VIẾT MỚI - Lê Xuân-Nhuận

Thông-tin đa chiều là ngọn đuốc soi rọi mọi khía canh'' đen tối! Coi để biết, biết để....tránh hay  phản-biện!! Bài viết của tác-giả, không nhất thiết là quan-điểm của THNT.


SỬ VIỆT HIỆN-ĐẠI
MỘT CÁCH VIẾT MỚI
 
        Về việc viết sử, xưa nay có nhiều phương-pháp.  Bài này chỉ nói về việc viết sử Việt Nam hiện-đại, đặc-biệt là việc phân-chia thời-gian cho mỗi thời-đại, thời-kì, giai-đoạn liên-quan.
        Trước nhất là nói về thời-đại Việt-Nam Cộng-Hòa.
 
I. “NHỮNG TIẾNG NÓI
TỪ NỀN ĐỆ-NHỊ VIỆT-NAM CỘNG-HÒA
       
        Mở đầu vấn-đề là tác-phẩm tiếng Anh “VOICES from the SECOND REPUBLIC of SOUTH VIETNAM”, doCornell Southeast Asia xuất-bản, mà chủ-biên (Tổng Biên Tập) là Keith. W. Taylor, tham-luận là một số nhân-sĩViệt-Nam Cộng-Hòa.
 
 
        Đây là một biến-cố quan-trọng, vì nó đánh dấu cụ-thể, công-khai sự xoay chiều của công-luận Hoa-Kì (trong chính-quyền và trên truyền-thông) từ phản-chiến (chống Chiến-Tranh Việt-Nam  Việt-Nam Cộng-Hòa) qua phục-chính (phục-hồi Chính-Nghĩa), mà người mở đường là Giáo-Sư Keith W. Taylor, Giám-Đốc Chương-Trình Đông-Nam Á-Châu của Viện Đại-Học Cornell, vốn là căn-cứ-địa của một số trí-thức thiên-tả, kể cả bản-thân Ông Taylor.
 
        Theo cố Giáo-Sư Nguyễn Ngọc Bích (trên tờ “Việt Báo” của Trần Dạ Từ & Nhã Ca) thì quá-trình hình-thành tác-phẩm này có thể được tóm-tắt như sau:
 
        Ông Keith W. Taylor nguyên là một chiến-binh Hoa-Kì tham-chiến tại Việt-Nam.  Sau khi hồi-hương, ông đã đặc-biệt tìm hiểu thêm về nước ta.  Kết-quả, ông đã viết nhiều sách và bài về lịch-sử và văn-học Việt-Nam, trong đó có các tác-phẩm giá-trị như The Birth of Vietnam (Việt Nam Khai Quốc), A History of the Vietnamese (Một Cuốn Sử về Người Việt).
        Trong nhiều năm giảng-dạy tại Viện Đại-Học Cornell ở Bang New York (Hoa-Kì), Ông Keith W. Taylor đã bị ảnh-hưởng bởi lối trình-bày lịch-sử truyền-thống (rằng Việt-Nam là một dân-tộc thống-nhất với một lịch-sử xuôi dòng từ xưa cho đến ngày “thống-nhất đất nước” 30-4-1975).
        Nhưng rồi ông tỉnh ra, rằng lịch-sử Việt-Nam đã có nhiều giai-đoạn phân-chia: có thời-kì có 3 chính-quyền (Nhà Mạc; Nhà  với Chúa Trịnh; Chúa Nguyễn ở Miền Nam); có giai-đoạn TrịnhNguyễn phân-tranh; rồi thời-kì tranh-hùng giữa 2 Nhà Nguyễn (Nguyễn Tây-Sơn với Nguyễn Gia-Miêu); chưa kể anh+em Tây-Sơn cũng chia nước ra làm 3; và nhất là Việt-Nam sau Geneva 1954.
 
        Vì thế, Ông Keith W. Taylor đã công-nhận rằng lối trình-bày cũ không sát thực-tếquá một-chiều
        Nên ông nhìn lại lịch-sử Việt-Nam cận-hiện-đại và thấy Miền Nam trong ngót 21 năm (1954-1975) đã thực-sự là một quốc-gia được quốc-tế công-nhận rộng-rãi (hơn Miền Bắc cộng-sản rất xa trong nhiều lãnh-vực và trong nhiều nghĩa.)  Từ đó, ông có í-tưởng phải nghiên-cứu một cách đứng-đắn về Miền Nam, về 2 nền Việt-Nam Cộng-Hòa.
 
        Đó là lí-do tại sao Giáo-Sư Keith W. Taylor (tức Viện Đại-Học Cornell), là một trong các Viện Đại-Học lớn củaHoa-Kì, đã tiên-phong mời một số nhân-vật đã có vai trò đáng kể trong những lãnh-vực chính-trị, ngoại-giao, an-ninh, quốc-phòng, kinh-tế, tài-chánh, thông-tin tuyên-truyền... của thời Đệ-Nhị Cộng-Hòa họp lại để trình-bày cho khoảng 100 học-giả đến từ khắp nước  và cả một số nước khác (PhápAnhCanada...) về những kinh-nghiệmxây-dựng dân-chủ qua Hiến-Pháp 1967, tôn-trọng Tam-Quyền Phân-Lập và những quyền căn-bản của người dân, qua một nền kinh-tế tự-do nhưng có điều-tiết, khuyến-khích phát-triển nông-nghiệp và công-nghiệp, xuất-khẩu, và đang trên đà cất cánh (takeoff).
 
        Các diễn-giả do Giáo-Sư Keith W. Taylor nhân-danh Chương-Trình Đông-Nam Á-Châu của Viện Đại-HọcCornell đứng ra tổ-chức và mời tham-dự cuộc Hội-Thảo Những Tiếng Nói từ Miền Nam (“Voices from the South”)vào tháng 6 năm 2012 (và có bài in trong sách này) gồm có:
        Bùi Diễm, cựu Đại-Sứ tại Hoa-Kỳ, Đặc-Sứ tại Hòa-Hội Paris, Đại-Sứ Lưu-Động của VNCH.
        Phan Công Tâm, cựu Giám-Đốc Kế-Hoạch và Phụ-Tá Công-Tác Đặc-Biệt cho Đặc-Ủy-Trưởng tại Phủ Đặc-Ùy Trung-Ương Tình-Báo VNCH.
        Nguyễn Ngọc Bích, cụu Tổng-Giám-Đốc Thông-Tấn-Xã VNCH.
        Trần Quang Minh, cựu Thứ-Trưởng Bộ Nông-Nghiệp & Tổng-Giám-Đốc chương-trình Lương-Thực Quốc-GiaVNCH.
        Nguyễn Đức Cường, cựu Bộ-Trưởng Bộ Thương-Nghiệp & Công-Nghiệp VNCH.
        Phan Quang Tuệ, cựu Phó Đổng-Lý Văn-Phòng của Chánh-Thẩm Tối-Cao Pháp-Viện VNCH.
        Trần Văn Sơn, cựu Dân-Biểu VNCH.
        Mã Xái, cựu Dân-Biểu VNCH.
        Hồ Văn Kỳ Thoại, cựu Phó Đề-Đốc Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng I Duyên-Hải VNCH.
        Lữ Lan, cựu Trung-Tướng Tổng-Thanh-Tra, Bộ Tổng-Tham-Mưu Quân-Lực VNCH.
        (Chưa kể phần dẫn-nhập của Chủ-Biên Keith W. Taylor, và phần tham-luận của Ông Hoàng Đức Nhã, cựu Tổng-Trưởng Dân-Vận & Chiêu-Hồi VNCH.)
 
IIMỘT CÁCH VIẾT MỚI
VỀ SỬ VIỆT HIỆN-DẠI
 
        Tôi đặc-biệt chú í đến cách viết (phân-chia thời-kì lịch-sử) trong sách này (có người gọi tắt là “Những Tiếng Nói từ Miền Nam” – Voices from the South.)
 
        Cứ theo tinh-thần cuộc hội-thảo này, qua bài luận-thuyết của người chủ-xướng, Ô. Taylor, thì:    
        “Việt-Nam Cộng-Hòa (Nam Việt-Nam) thông-thường được xem là một thực-thể thống-nhất xuyên suốt qua hai thập-niên (từ 1955 đến 1975) trong đó Hoa-Kỳ là đồng-minh chính-yếu của mình.  Tuy nhiên, chính-trị quốc-nộitrong thời-kỳ ấy đã diễn-biến theo một quỹ-đạo động, từ một giai-đoạn độc-đoán đến một giai-đoạn hỗn-loạn, rồi đến một giai-đoạn thử-nghiệm dân-chủ đại-nghị tương-đối ổn-định.  Ấn-tượng sâu-sắc về Nam Việt-Nam biểu-lộ trong đa-số các tác-phẩm, cả kinh-viện lẫn đại-chúng, tập-trung vào hai giai-đoạn đầu tiên [độc-đoánhỗn-loạn] để miêu-tả một bức tranh biếm-họa về tệ-nạn độc-tài tham-nhũng bất-ổn, mà ít nói đến những gì đã đạt được trong giai-đoạn tám năm sau cùng [thử-nghiệm dân-chủ...]”
 
        Tám năm sau cùng, là [1975-8=1967] từ 1967 đến 1975.  Đó là giai-đoạn Việt-Nam Cộng-Hòa có Hiến-Phápdo Quốc-Hội Lập-Hiến với Chủ-Tịch Phan Khắc Sửu chung-quyết (18-3-1967), có bầu-cử Tổng-Thống & Phó Tổng-Thống (3-9-1967), kết-quả của đòi-hỏi chính-đáng của dân-chúng qua Biến Động Miền Trung năm 1966.
 
        Trước đó [và cả hiện nay], thông-thường người ta chia Việt-Nam Cộng-Hòa ra làm 2 thời-kì (nền Cộng-Hòa):
        1. Đệ-Nhất Cộng-Hòa:   từ 1954 đến 1963
        2. Đệ-Nhị Cộng-Hòa:     từ 1963 đến 1975
 
        Như thế tức là người ta lấy ngày Cách-Mạng 1-11-1963 làm mốc thời-gian (chấm dứt Đệ-Nhất Việt-Nam Cộng-Hòa), để kể từ đó trở đi (1963-1975) là Đệ-Nhị Việt-Nam Cộng-Hòa.
 
        Nhưng nay, theo cách (phương-pháp) mới trong việc viết sử hiện-đại của [Miền NamViệt-Nam nói trên, ta có:
        1/ Giai-đoạn độc-đoán:   từ 1955 đến 1963
        2/ Giai-đoạn hỗn-loạn:    từ 1963 đến 1966
        3/ Giai-đoạn dân-chủ:     từ 1967 đến 1975
       
        Vậy là thời-kì Đệ-Nhị Việt-Nam Cộng-Hòa (1963-1975) được chia ra làm 2 giai-đoạn: giai-đoạn hỗn-loạn và giai-đoạn dân-chủ, mà giai-đoạn sau cùng này [tám năm cuối-cùng) mới là giai-đoạn thử-nghiệm dân-chủ đại-nghị tương-đối ổn-định, trong đó các nhân-vật kể trên [và nhiều người khác nữa chứ] “đã ra sức xây-dựng một cơ-cấu hiến-định cho chính-thể đại-nghị trong một cuộc chiến để sống-còn chống lại một nhà-nước chuyên-chế.  Những người đã cam-kết thực-hiện một tương-lai cho Việt-Nam không-cộng-sản đã đặt tất cả hy-vọng của họ vào nền Đệ-Nhị Việt-Nam Cộng-Hòa, đấu-tranh cho nó, và hành-động cho sự thành-công của nó...”
 
IIIBA GIAI-ĐOẠN
CỦA THỜI-KÌ ĐỆ-NHẤT CỘNG-HÒA
 
        Tôi thấy phân-chia thời-kì Đệ-Nhị Việt-Nam Cộng-Hòa ra 2 giai-đoạn như thế, nhìn chung, cũng rất hợp-lí, mặc dù kết-quả tình-hình (do các iếu-tố nội-tại cũng như ngoại-lai) đã vượt ra ngoài ước-mong và nỗ-lực của những người có viễn-kiến và tâm-huyết liên-quan (Xem thêm).
 
        Cũng nhân vấn-đề phân-chia giai-đoạn lịch-sử trong thời-kì Đệ-Nhị Việt-Nam Cộng-Hòa này, tôi thấy cũng nên (và cần) làm việc tương-tự đối với thời-kì Đệ-Nhất Việt-Nam Cộng-Hòa.
 
        Lí-do là vì hầu như mỗi lần nói đến Đệ-Nhất Việt-Nam Cộng-Hòa (gọi tắt là chế-độ Diệm), hai phía hoài-Ngôvà bài-Ngô đều vơ đũa cả nắm, cực-đoan đến độ thiếu phần khách-quan. 
 
        Phía hoài-Ngô thì cứ cho rằng, vì giới Phật-Tử Tranh-Đấu, tức Phật-Giáo Ấn-Quang, tức Giáo-Hội Phật-Giáo Việt-Nam Thống-Nhất, cụ-thể là Thượng-Tọa Thích Trí Quang, đã lật đổ “chế-độ Diệm”, nên Đệ-Nhị Việt-Nam Cộng-Hòa chỉ là một quá-trình dẫn đến mất nước vào Ngày 30-4-1975.  (Điều này đã được chứng-nhân lịch-sử Lê Xuân Nhuận, ít nhất là trong cuốn sách hồi-kí “Biến-Loạn Miền Trung” do Nhà Xây-Dựng xuất-bản vào đầu năm2012, nêu thêm một số iếu-tố Sự Thật, rằng ai mới là chính-phạm bức-tử Việt-Nam Cộng-Hòa.  Ngoài ra, “Chớ đem thành/bại luận anh-hùng”, trong số những nhân-vật ít/nhiều liên-quan đến vận nước suy-vong, vẫn có nhiều người nổi bật với các đóng-góp tích-cực của họ, ít nhất là các diễn-giả trong cuộc Hội-Luận “Những Tiếng Nói từ Miền Nam” ở Viện Đại-Học Cornell vào tháng 6 năm 2012 nói trên, với các thành-tựu nhất-định của họ, đều đã chính-thức nói lên tiếng nói của mình.)
 
        Còn phía bài-Ngô thì cũng vì thấy Đệ-Nhất Việt-Nam Cộng-Hòa có quá nhiều khuyết-điểm, nhất là đều nằm dưới quyền [toàn-quyền chính-trị và quân-sự] của một lãnh-tụ, Ông Ngô Đình Diệm [và gia-đình], nên đã quy chung giai-đoạn cầm quyền của ông từ 7-7-1954 đến 26-10-1955 vào với thời-kỳ Đệ-Nhất Việt-Nam Cộng-Hòa của Nhà Ngô 1955-1963 mà Giáo-Sư Keith W. Taylor gọi là chung là giai-đoạn độc-đoán.
*
        Theo tôi, thời-kì “chế-độ Diệm” nên/cần được chia ra làm 3 giai-đoạn:
        1) Giai-đoạn Chuyển-Tiếp:     từ 7-1954 đến 10-1955
        2) Giai-đoạn Độc-Đoán Nhẹ: từ 1955 đến 1960
        3) Giai-đoạn Độc-Đoán Nặng: từ 1960 đến 11-1-1963
 
1Giai-Đoạn Chuyển-Tiếp (1954-1955)
 
        Ở giai-đoạn bản-lề này, Ông Ngô Đình Diệm còn là Thủ-Tướng của Quốc-Gia Việt-Nam dưới quyền Quốc-Trưởng Bảo-Đại
        Thủ-Tướng Ngô Đình Diệm đã thành-công trong nhiều việc, tỉ như:
        – Tiếp+Trợ gần 800,000 đồng-bào Bắc-Việt di-cư vào Nam (với phương-tiện của Mĩ  Pháp do Mĩ iểm-trợ);
        – Chấm dứt sự chống-đối của Trung-Tướng Tổng-Tham-Mưu-Trưởng Nguyễn Văn Hinh (nhờ Quốc-TrưởngBảo Đại cất chức);
        – Được các tướng+tá chỉ-huy các giáo-phái vũ-trang Cao-Đài và Hòa-Hảo lần-lượt đem quân về hợp-tác; đặc-biệt Tướng Trình Minh Thế (Cao-Đài) tận-tình cho đến chết;
        – Bình-định chiến-khu Ba Lòng của Đại-Việt ở Quảng-Trị;
        – Dẹp yên lực-lượng Bình-Xuyên từ thủ-đô Sài-Gòn xuống tận Rừng Sát (chỉ-huy chiến-dịch “Hoàng Diệu” này là Đại-Tá Dương Văn Minh);
        – Bãi bỏ “Hoàng-Triều Cương-Thổ”;   
        – Được Hội-Đồng Tôn-Nhơn-Phủ (của hoàng-gia Nguyễn-Phước Tộc) từ Huế gửi điện vào ủng-hộ;
        – Được nhận trực-tiếp viện-trợ của , không còn qua trung-gian của Pháp;
        – Được Pháp giao trả Dinh Độc-Lập; chuyển quyền chỉ-huy/quản-trị Quân-Đội, Cảnh-Sát & Công-An, Tư-Pháp, Ngân-Khố, Tiền-Tệ, Hối-Đoái, Thương-Mại, Quan-Thuế, Công-Chánh, v.v...
(Nguồn: “Hai Mươi Năm Qua – Việc Từng Ngày – 1945-1964” của Đoàn Thêm)
 
        Tuy thế, Thủ-Tướng Ngô Đình Diệm đã gặp phải nhiều trở-lực:
        Tổng-Ủy-Trưởng Tị-Nạn Ngô Ngọc Đối, Bộ-Trưởng tại Phủ Thủ-Tướng Bùi Kiện Tín, Tổng-Trưởng Phụ-TáQuốc-Phòng Hồ Thông Minh, Quốc-Vụ-Khanh Ủy-Viên Quốc-Phòng Trung-Tướng Trần Văn Soái, Quốc-Vụ-Khanh Ủy-Viên Quốc-Phòng Thiếu-Tướng Nguyễn Thành Phương, Tổng-Trưởng Xã-Hội Nguyễn Mạnh Bảo, Tổng-Trưởng Thông-Tin & Chiến-Tranh Tâm-Lý Phạm Xuân Thái, Tổng-Trưởng Kinh-Tế Lương Trọng Tường, Tổng-Trưởng Canh-Nông Nguyễn Công Hầu, Bộ-Trưởng Nội-Vụ Huỳnh Văn Nhiệm, Thứ-Trưởng Nội-Vụ Nguyễn Văn Cát, Đô-Trưởng Sài-Gòn Trần Văn Hương, v.v... tất cả đều do Thủ-Tướng Ngô Đình Diệm bổ-nhiệm, mà đềutheo nhau từ-chức để phản-đối; Đức Hộ-Pháp Phạm Công Tắc thành-lập “Mặt Trận Thống-Nhất” gồm nhiều đoàn-thể, cùng các giáo-phái, các giới-chức khác, cả trong lẫn ngoài nước, đều đòi-hỏi Thủ-Tướng Ngô Đình Diệm mở rộng chính-phủ, thực-thi dân-chủ, v.v...
 
        Cho nên, mới một năm đầu mà Thủ-Tướng Ngô Đình Diệm đã phải cải-tổ nội-cácnhiều lần.
        Đó là về chính-sách, thuật trị-quốc, thuật dụng-nhân, và nhân-sự nội-bộ; vả lại vẫn còn Quốc-Gia Việt-Namdưới thời Quốc-Trưởng Bảo-Đại, nên thời-gian này có thể được liệt vào trong Giai-Đoạn 1, là “Giai-Đoạn Chuyển-Tiếp”.
 
2Giai-Đoạn Độc-Đoán Nhẹ (1955-1960)
 
        Giai-Đoạn 2 được nhen-nhúm từ Giai-Đoạn 1, cụ-thể là việc hợp-pháp-hóa “Hội Cần Lao Nhân Vị Cách Mạng Đảng”, thành-lập đoàn-thể chính-trị “Tập-Đoàn Công-Dân”; triển-khai các Đoàn Cán-Bộ “Công-Dân-Vụ” lưu-động, “Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia”; tổ-chức “Tham-Chính-Viện” (thay-thế Tối-Cao Pháp-Viện cũ); v.v... từ ngày 7-7-1954 đến ngày “Trưng Cầu Dân Ý” 23-10-1955.
 
        Tháng 7-1954, Ông Ngô Đình Diệm nhậm-chức Thủ-Tướng ở Sài-Gòn.  Ở Miền Trung, ảnh-hưởng của Phápvà Quốc-Trưởng Bảo-Đại còn mạnh.  Tại Bộ Tư-Lệnh Đệ-Nhị Quân-Khu, đóng trong Đại-Nội (tả-ngạn Sông Hương), Huế, Đại-Tá Trương Văn Xương làm Tư-Lệnh; các Đại-Úy/Thiếu-Tá Nguyễn Văn Thiệu và Trần Thiện Khiêm thay nhau làm Trưởng Phòng 3 và Tham-Mưu-Trưởng; Đại-Úy Đặng Văn An làm Trưởng Phòng 5.  Tham-Mưu-Trưởng Trần Thiện Khiêm kí sự-vụ-lệnh (bằng chữ Pháp) cử Lê Xuân Nhuận làm Trưởng Ban Phát-Thanh [mà Phòng 5 gọi là Giám-Đốc Đài] “Tiếng Nói Quân Đội” tại Đệ-Nhị Quân-Khu.
        Khi Trung-Tướng Nguyễn Văn Hinh , Tổng-Tham-Trưởng Quân-Đội Quốc-Gia (và Đại-Tá Trương Văn Xương Tư-Lệnh Đệ-Nhị Quân-Khu) chống lại Thủ-Tướng Ngô Đình DiệmLê Xuân Nhuận li-khai nhóm Trương Văn Xương, dùng “Đài Tiếng Nói Quân-Đội tại Đệ-Nhị Quân-Khu”, mà trụ-sở đặt tại Đài Phát-Thanh Huế (hữu-ngạn Sông Hương), để đơn-phương ủng-hộ Ngô Tổng-Thống.  Đài Huế hồi đó rất mạnh, phủ sóng khắp cả Miền Bắc lẫn Miền Nam; nhờ đó, các phần-tử đầu-tiên ủng-hộ họ Ngô ở Huế và Miền Trung mới mạnh-dạn bước ra, và ởMiền Nam càng vững chân hơn (xem thêm)...
        Trong cuộc trưng cầu dân ý truất-phế Bảo Đại ngày 23-10-1955Lê Xuân Nhuận được chỉ-định làm “Trưởng Phòng Phiếu” tại khu-vực Dòng Chúa Cứu-Thếhữu-ngạn Sông Hương.  Đại-Úy (về sau là Trung-Tá) Đặng Văn An, trong Bộ Tham-Mưu cũ của Đại-Tá Trương Văn Xương, cấp chỉ-huy cũ của tôi, thì dè-dặt nhìn tôi mà bỏ phiếu; còn mấy nhân-viên kiểm-soát việc cử-tri bỏ phiếu, tôi chưa hề quen, thì luôn lén liếc về tôi; khiến tôi cảm thấy mất tự-nhiên.  Kết-quả là ở Sài-Gòn Chợ-Lớn có 450,000 cử-tri ghi tên đi bầu, mà số phiếu bầu cho Cụ Ngô đếm được là 605,025 (130%).
Nguồn: Bernard Fall, “The Two Viet-Nams: A Political and Military Analysis (New York: Frederick A. Praeger, 1962”, trang 257.
 
        Lấy các ngày tháng lịch-sử mà tính cho dễ, thì ngày 26-10-1955, ngày tuyên-bố Hiến-Ước tạm-thời, thành-lập nước Việt-Nam Cộng-Hòa [của Ngô Đình Diệm] thay cho Quốc-Gia Việt-Nam [của Bảo-Đại], cải-danh Quốc-Trưởng là Tổng-Thống, là ngày khởi-đầu của giai-đoạn 2 (Độc-Đoán Nhẹ).
 
        Tôi gọi là “Giai-Đoạn Độc-Đoán Nhẹ” vì, ít ra, trong Giai-Đoạn 2 này:
        1/ Phần thì Hoa-Kì ủng-hộ tích-cực và viện-trợ dồi-dào, phần thì Cộng-Sản Việt-Nam bận lo tái-thiết Miền Bắcnhiều năm sau ngày ngưng bắn 20-7-1954 nên chưa quấy-rối Miền NamMiền Nam Việt-Nam quả đã hưởng được một giai-đoạn thanh-bình, người dân no cơm ấm áo, có phần dư-dả, và đất nước vươn lên, hy-vọng phú-cường...
        2/ Phần thì các tệ-nạn do chế-độ gây nên tuy đã đầy nhưng chưa tràn; cho đến khi bùng nổ, đẩy Đệ-Nhất Việt-Nam Cộng-Hòa vào Giai-Đoạn 3, là “Giai-Đoạn Độc-Đoán Nặng”, bắt đầu từ 1960 (xem thêm).
 
3Giai-Đoạn Độc-Đoán Nặng (1960-1963)
 
        Bắt đầu từ đầu năm 1960, âm-lịch là năm Canh-Tí, mà năm Canh-Tí là “năm tuổi” của Tổng-Thống Ngô Đình Diệm (64 tuổi), cái nồi súp-de xì ra: nhật-báo Tự Do, mặc dù ấn-hành nhờ tiền Mật-Vụ của Cố-Vấn Ngô Đình Nhu, đăng lên bìa trước số Xuân, một bức họa của Phạm Tăng, vẽ 6 con chuột đang gặm nhấm một trái dưa hấu. Vì mới thôi, nên ai tinh mắt mới thấy, 6 con chuột ấy là DiệmThụcNhu, bà NhuCẩnLuyện, và quả dưa hấu ấy là nước Việt-Nam Cộng-Hòa dưới triều Ngô.
 
        Đến khi nổ bùng, mọi người đều nghe/thấy/biết, thì biến-cố đầu tiên là Lê Xuân Nhuận ở Huế đã công-khai lên tiếng, trong buổi “học-tập chính-trị và công-dân giáo-dục” (do Cố-Vấn Ngô Đình Nhu chỉ-đạo cho toàn-quốc) vào dịp Lễ Hai Bà Trưng, 3-3-1960, tại cơ-quan Cảnh-Sát Huế (lại Huế), tố-cáo các tội ác dưới thời Đệ-Nhất Việt-Nam Cộng-Hòa, hiển-nhiên do Đảng Cần-Lao Nhân-Vị gây nên.
        Biến-cố này xảy ra trước cả chuỗi những biến-cố khác (vụ 18 nhân-sĩ Caravelle, vụ đảo-chánh hụt 11-11-1960, “Mặt Trận Giải-Phóng Dân-Tộc Miền Nam Việt-Nam” ra đời 20-12-1960, v.v...) (Xem thêm)
        Hiển-nhiên thời-gian 1960-1963 là Giai-Đoạn Độc-Đoán Nặng, từ lời phản-kháng công-khai của Lê Xuân Nhuận đến cái chết của anh+em Ngô Đình Diệm & Ngô Đình Nhu.
 
IIIHAI GIAI-ĐOẠN
CỦA THỜI-KÌ ĐỆ-NHỊ CỘNG-HÒA
 
        Trở lại với chủ-đề của bài-viết này.
        Nhóm tỉnh ra của Giáo-Sư Keith. W. Taylor ít nhất qua cuốn NHỮNG TIẾNG NÓI TỪ NỀN ĐỆ-NHỊ VIỆT-NAM CỘNG-HÒA (1967-1975) này, đã chia thời-kì Đệ-Nhị Việt-Nam Cộng-Hòa ra là 2 giai-đoạn:
        1) 1963-1966 là Giai-Đoạn Hỗn-Loạn
        2) 1967-1975 là Giai-Đoạn Thử-Nghiệm Dân-Chủ Đại-Nghị, gọi tắt là Giai-Đoạn Dân-Chủ.
 
        So với tình-hình thấy trên thực-tế, có thể có người không hẳn đồng-í gọi thời-gian 1967-1975 là Giai-Đoạn Dân-Chủ.
 
        Tuy nhiên, lắng nghe “TIẾNG NÓI CỦA NỀN ĐỆ-NHỊ VIỆT-NAM CỘNG-HÒA”, tôi thử đọc qua, thí-dụ bài tham-luận của Thẩm-Phán Hoa-Kì Phan Quang Tuệ, “From the First to the Second Republic: From Csylla to Charybdis”:
        Scylla và Charybdis là hai con hải-quái trong thần-thoại Hy-Lạp, hùng-cứ 2 bên đối-nghịch nhau ở eo biểnMessina, giữa Italy và Sicily. Hai con quái biển phù-phép chống nhau, bên thì biến thành con quỷ 6-đầu với mỗi-đầu-3-hàng-nanh-nhọn, bên thì tạo thành một vùng nước xoáy, kết-quả là hải-thuyền thì khó bề vẹn-nguyên, và thủy-thủ thì cầm chắc mạng-vong, trên đường băng qua eo biển này.
 
        Để ví-von vì sao Giai-Đoạn Dân-Chủ (1-4-1967 30-4-1975) của Thời-Kì Đệ-Nhị Việt-Nam Cộng-Hòa không đơm hoa, dù đã có nhiều hạt giống tinh-anh (nếp sống văn-minh và dân-chủ cao-độ so với Miền Bắc u-tối cùng thời), Ông Phan Quang Tuệ, trưởng-nam của Bác-Sĩ Chính-Trị-Gia Phan Quang Đán tên-tuổi một thời, đã nhắc đếnScylla và Charybdis, là tượng-trưng cho Hoa-Kì, qua Nixon và Kissinger một bên, cùng Việt-Cộng qua Hoa-Cộngvới Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai một bên, khiến cho Việt-Nam lại lâm vào cơ nguy nanh nhọn và nước xoáy của kẻ thù Bắc-phương.
 
KẾT-LUẬN
 
        Nay phân-chia lại thời-đoạn cho Việt-Nam Cộng-Hòa, ta có:
 
                       Thời-Kì Đệ-Nhất Cộng-Hòa=
        1) Giai-đoạn Chuyển-Tiếp:     từ 7-1954 đến 10-1955
        2) Giai-đoạn Độc-Đoán Nhẹ: từ 1955 đến 1960
        3) Giai-đoạn Độc-Đoán Nặng: từ 1960 đến 1-11-1963
 
                       Thời-Kì Đệ-Nhị Cộng-Hòa=
        1) Giai-Đoạn Hỗn-Loạn:        từ 2-11-1963 đến 1966
        2) Giai-Đoạn Dân-Chủ:         từ 1-4-1967 đến 30-4-75
 
        Vấn-đề ở đây không phải là cách-thức phân-chia thời-đoạn như trên, mà là dựa vào thời-đoạn như trên để làm căn-cứ cho việc KHEN/CHÊ TỐT/XẤU mỗi khi phê-bình Đệ-Nhất và Đệ-Nhị Việt-Nam Cộng-Hòa.
 
        Xin nói nôm-na và ngắn-gọn là phía hoài-Ngô chỉ nên đề-cao và tự-hào về thời-kì tương-đối “vàng son” (cóvàng nhưng cũng có thau) của Đệ-Nhất Cộng-Hòa là Giai-Đoạn Độc-Đoán Nhẹ; đừng vơ luôn cả Giai-Đoạn Độc-Đoán Nặng vào, vì không thuyết-phục được những người khách-quan.  Đồng-thời, khi chỉ-trích tình-trạng bất-ổn của Đệ-Nhị Cộng-Hòa thì cũng nên thu gọn trong Giai-Đoạn Hỗn-Loạn, không nên quy-trách chung cho cả nhữngthành-tựu trong Giai-Đoạn Dân-Chủ [phần nào đã được nêu ra trong sách “VOICES from the SECOND REPUBLIC of SOUTH VIETNAM”  Những Tiếng Nói từ Nền Đệ-Nhị Việt-Nam Cộng-Hòa.)
       
        Bản-thân tôi đã từng là Ki-Tô-HữuCơ-Đốc-Nhân [qua nhiều hệ-phái]; nhưng tôi không chỉ nghe theo các sáchvà lời “nhiệm ý” của các linh-mục và mục-sư, mà tôi đã tự mình tìm đọc toàn-văn cuốn sách Kinh Thánh, nên tôi có đủ can-đảm nhận-chân Lẽ Thật mỗi khi có người đề-cập/trích-dẫn chính những Lời Chúa được in rành-rành trongThánh-Kinh.
 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét